Ngày 5/3, Ủy ban Nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu đã tổ chức Lễ công bố quyết định công nhận Bảo vật quốc gia đối với bia Lê Lợi và đón nhận Bằng xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia đối với địa điểm lưu niệm vua Lê Thái Tổ tại xã Lê Lợi, huyện Nậm Nhùn.
Tấm bia khắc bài minh văn của vua Lê Lợi chính là một văn bản xác định chủ quyền - Ảnh Vũ Lam
Bia được vua Lê Thái Tổ cho khắc vào năm 1431, trên vách đá của bờ bắc
sông Đà dưới chân dãy núi Pú Huổi Chỏ, sau khi dẹp yên phản loạn. Bia đá
như một lời răn đe đối với những kẻ phản loạn và có ý đồ làm loạn lúc
bấy giờ.
Năm 1981, bia Lê Lợi được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Đến
năm 2012, do ảnh hưởng vùng ngập lòng hồ thủy điện Sơn La, bia Lê Lợi
đã được di dời lên đền thờ vua Lê Lợi cách vị trí cũ 500 mét để lưu giữ.
Cuối năm 2016, bia Lê Lợi chính thức được công nhận là Bảo vật quốc
gia.
Đầu năm 2017, địa điểm lưu niệm vua Lê Lợi cũng được Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia. Đây là địa điểm
để người dân tỉnh Lai Châu và các địa phương lân cận đến tham quan, tìm
hiểu những giá trị lịch sử, văn hóa của Bảo vật quốc gia bia Lê Lợi.
Theo vietnamplus.vn
Nội dung của bài thơ của vua Lê Thái Tổ khắc trên vách đá bờ bắc sông Đà
LỜI CẨN
Di địch chi vi biên hoạn tự cổ hữu chi,
Hán chi Hung Nô, Đường chi Đột Quyết
Ngã Tây Việt chi Mang Lễ dư man thị dã
Khoảnh do Trần Hồ suy chính phiên thần bạt hỗ
Cát Hãn cửu ư cứu tây phụ cố phất thoan
Dư kim xuất sĩ vãng chinh hoá
Thuỷ lực tịnh tiến nhất cứ tựu bình
Nhân tả, nhất luật khắc chi vu thạch
Dĩ giới hậu thế man tù chi ngạnh, hoá giả văn.
Thơ chữ Hán
Cuồng tặc cảm bô tru
Biên minh cứu hệ tô
Bọn thần tòng cố hữu
Biên địa tự kim vô
Thảo mộc kinh phong hạc
Sơn xuyên nhập bản đồ.
Đề thi khắc nhan thạch
Trấn giữ ngã Việt Tây ngu
Tân Hợi quý đông cát nhật.
Ngọc hoa động chủ đề
DỊCH NGHĨA
Di địch là mối lo ở biên thuỳ từ xưa vẫn có. Dợ Hung Nô ở đời Hán, dợ
Đột Quyết ở đời Đường. Các man Mường Lễ phía Tây nước Việt ta cũng vậy.
Vừa rồi vì nhà Trần, Hồ chính trị suy đồi, bầy tôi ở biên thùy sinh
ngạo ngược. Cát Hãn nhờn theo thói cũ giữ nơi biên thuỳ không chừa. Ta
nay đem quân tới đánh. Đường thuỷ, đường bộ cùng tiến một trận dẹp yên.
Nhân viết một bài thơ luật. Cho khắc vào đá để răn những kẻ tù trưởng
Man không theo giáo hoá ở đời sau. Thơ rằng :
Giặc cuồng sao giám tránh tội đáng giết
Dân ngoài biên đã từ lâu đợi ta đến cứu sống
Kẻ bầy tôi làm phản từ xưa vẫn có
Đất đai hiểm trở từ nay không còn
Cỏ cây và tiếng gío tiếng chim cũng làm
quân giặc kinh sợ
Non sông này từ nay nhập vào bản đồ nước ta.
Đề thơ khắc lên đá núi.
Để chắn giữ phía Tây nước Việt ta.
Vua Ngọc hoa động chủ
Tân Hợi tháng Chạp 1-1432
Đền thờ Bia Lê Lợi được đặt vị trí trang trọng để đón tiếp du khách gần xa - Ảnh Anh Vũ
Lê Lợi sau hơn mười năm “nằm gai” “nếm mật” cùng với Nguyễn Trãi lãnh
đạo cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc đánh đuổi giặc ngoại xâm ra
khỏi biên cương, đất nước thu về một mối. Tuy nhiên, ở vùng biên ải xa
xôi, lợi dụng trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đó ở miền xuôi, Đèo
Cát Hãn tù trưởng châu Mường Lễ-nau nay là tỉnh Lai Châu có ý đồ liên
kết với giặc bên ngoài ở phía Tây là Lào và phía Bắc là nhà Minh ở Vân
Nam để cát cứ một vùng.
Phát hiện được ý đồ đó của Đèo, bởi cái hoạ ở biên thuỳ là nguyên
nhân làm cho nhà nước Trung ương suy yếu. Cho nên nhà vua thân chinh đưa
quân lên miền “phên đậu” phía Tây Bắc nước ta: quân đi theo hai cánh
đường bộ và đường thuỷ dọc theo sông Đà. Uy thế của cuộc hành quân huyền
diệu, thần tốc lan ra: “tiếng gió tiếng chim cũng làm quân giặc khiếp
sợ”.
Việc Lê Lợi thân chinh lên biên giới phía Tây Bắc với hai ý nghĩa.
Thứ nhất là đánh dẹp bọn tù trưởng cát cứ, nhằm cắt đứt sự nhòm ngó của
kẻ thù bên ngoài. Thứ hai là xác lập bản đồ của đất nước ở phía Tây nước
Việt ta.
Trong đợt viễn du lên miền Tây Bắc ấy, Lê Lợi đã khắc hai tấm bia:
một bia ở cạnh Chợ Bờ Hòa Bình và một bia trên thành núi cạnh bờ sông Đà
ở Lai Châu. Tấm bia ở Lai Châu sau 5 thế kỉ đã bị cây cối che kín, dân
địa phương không ai hay biết gì bởi vì, việc làm đó là của vương quyền,
chỉ ghi vào sử sách, và ngay giới quan Lang phìa tạo cũng không biết.
Còn giới nghiên cứu thì chỉ biết trong thư tịch, mà không rõ nằm ở địa
điểm nào. Nhưng như thần linh mách bảo, tổ tiên xui khiến đúng vào thời
điểm lịch sử.
Khoảng năm 1954 hai cha con một nông dân người Thái Lò Văn Pánh ở bản
Trang cạnh nhà Đèo Văn Long đi săn thú, vô tình bắt gặp tấm bia. Thấy
chữ Nho, hai cha con sợ lắm, bỏ buổi săn chạy về nhà, rồi không nói cho
ai biết. Sau này(1960) do làm đường đi Mường Tè qua gần đó và con trai
ông Pánh là Lò Văm Pún cùng công nhân làm đường nên anh Pún mới nói ra.
Tin về tấm bia này đến Phòng Văn hóa Châu Mường Lay, rồi về Sở Văn hóa
khu Tây Bắc, nhưng chưa biết cụ thể tấm bia nằm ở vị trí nào nào bên
thành núi.
Năm 1962, tỉnh Lai Châu được thành lập, Ty Văn hoá đã có các phòng
ban, Phòng Bảo tàng, Phòng Văn nghệ. Trong điều kiện đó, năm 1965 cán bộ
bảo tàng của khu tự trị Tây Bắc Nguyễn Ngọc Tuấn lên cùng chúng tôi
sang khu bản Trang tìm hiểu, may qúa lại gặp được bác Lò Văn Pánh, người
thấy tấm bia lần trước. Ngay chiều hôm đó, bác đưa chúng tôi lên triền
núi bên bờ sông Đà cách bản Trang độ 5km, theo đường mòn đi Mương Tè.
Bia nằm bên vách đá dựng đứng, cách đường mòn độ 20m.
gay ngày hôm sau, với khả năng nghề nghiệp, Nguyễn Ngọc Tuấn, cán bộ
bảo tàng khu Tây Bắc bắt tay vào việc dập bản chữ và sau đó là việc
dịch. Bản dịch trong bài báo này là của tác giả Nguyễn Ngọc Tuấn nay đã
quá cố. Bài báo này để tri ngộ với ông.
Ngày xưa các bậc vương quyền, lấy lãnh thổ của đất nước làm gốc, sau
đó mới lấy dân chúng làm trọng. Lãnh thổ bị lấn chiếm dần, chỉ cần: nay
một tấc, mai một tấc thì không mấy chốc mà đất đai dần bị thu hẹp. Khi
không có đất thì dân chúng không có đất để ở và không có đất đai để cày
cấy, gieo trồng thì thiếu cái để ăn, dẫn đến đói kém, phiêu bạt. Do đó,
một tấc đất ở phên dậu của Tổ quốc bị mất, kẻ làm quan ở địa hạt ấy bị
chém đầu. Cho nên, các bậc vua hiền, khi dựng được nước là đi tuần thú ở
biên cương, khắc bia vào đá núi để chắn giữ nơi dậu phên. Lê Lợi là một
trong số tấm gương đó. Noi theo gương của tiền nhân, nhà Nguyễn khi
thống nhất được đất nước Vua Gia Long đã đưa các tướng tài tâm phúc đến
cai trị các vùng trung tâm chính trị và các nơi phên dậu hiểm yếu trong
đất liền, ngoài biển Đông thì cho các đội quân khai thác hải sản, nhưng
cái chính là làm phên dậu ở ngoài khơi xa, nay là vùng Hoàng Sa, Trường
Sa; Nhà Vua còn cho tổ chức lễ giỗ cấp nhà nước ở Đền Hùng tỉnh Phú
Thọ.
Các vua còn gả con gái cho các Tù trưởng chắn cứ ở miền phên dậu của
đất nước để làm mối ràng buộc. Trong đó gương sáng cho muôn đời sau là
việc Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã gả con gái yêu là Công chúa Huyền
Trân cho Chúa Chiêm Thành Chế Mân. Chế Mân đem đất châu Ô, châu Lý làm
vật dẫn cưới và phong Huyền Trân làm Hoàng hậu. Cho đến ngày nay, người
dân Việt của 2 vùng đất ấy, đó là Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế, đã lập
đền thờ Công chúa Huyền Trân và sáng tạo làn điệu dân ca Nam ai, Nam
bằng để ngợi ca về gương hy sinh quyền lợi cá nhân, đem lại lợi ích cho
dân tộc của Công chúa. Vùng đất châu Ô, châu Lý cũng là cơ sở tạo điều
kiện cho việc mở rộng đất Đàng Trong sau này của Chúa Sải do mưu sĩ Đào
Duy Từ hiến kế.
Theo Thế giới di sản
Dương Đinh Minh Sơn