Việc khai thác các giá trị văn hóa tâm linh để phát triển du lịch đã hình thành nên chuỗi giá trị du lịch tâm linh tại Việt Nam. Mục tiêu đầu tiên của chuỗi giá trị trong phát triển du lịch dựa vào thế mạnh văn hóa tâm linh là đóng góp và làm gia tăng lợi ích kinh tế cho địa phương.
Dương Đức Minh
Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM
Việc khai thác các giá trị văn hóa tâm linh để phát triển du
lịch đã hình thành nên chuỗi giá trị du lịch tâm linh tại Việt Nam. Mục tiêu đầu
tiên của chuỗi giá trị trong phát triển du
lịch dựa vào thế mạnh văn hóa tâm linh là đóng góp và làm gia tăng lợi
ích kinh tế cho địa phương.
Tuy nhiên việc gia tăng lợi ích kinh tế chỉ là một phần của
mục tiêu phát triển bền vững. Nếu chỉ tập trung khai thác giá trị này mà bỏ
quên các trách nhiệm bảo tồn về mặt môi trường, văn hóa sẽ hình thành nên những
nguy cơ gây tổn thương sâu sắc đến đời sống của cộng đồng dân cư tại chỗ và cảnh
quan thiên nhiên gắn với không gian văn hóa tâm linh.
Thông qua quá trình khảo sát thực địa cùng với hoạt động phỏng
vấn sâu, quan sát tham dự tại một số địa điểm du lịch tâm linh tại Việt Nam,
trong đó có địa bàn trọng điểm là núi Sam – Châu Đốc – An Giang, tác giả đã có
cơ hội tìm hiểu và nhận diện được việc thực hành du lịch tâm linh của các bên
liên quan.
Kết hợp với các nguồn tài liệu thứ cấp tác giả đã khái luận
các đặc điểm, điều kiện hình thành và tình hình khai thác du lịch tâm linh tại
Việt Nam. Từ đó, dựa trên quan điểm phát triển bền vững tác giả đưa ra những
khuyến nghị nhằm góp phần nâng cấp chuỗi giá trị lịch tâm linh ở nước ta.
1. Dẫn nhập
Du lịch tâm linh đang được triển khai và thực hiện nhiều nơi
ở Việt Nam. Du lịch tâm linh là một hình thức biểu hiện đặc sắc của loại hình
du lịch văn hóa. Gần như trong các
chương trình du lịch đều xuất hiện các điểm tham quan gắn với các công trình và
hệ thống cảnh quan thiên nhiên có xuất
hiện hoặc liên quan đến những giá trị văn hóa và tâm linh. Hay nói một cáck
khác giá trị văn hóa tâm linh đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút du
khách và đóng góp một cách tích cực vào sự phát triển kinh tế du lịch ở nước
ta.
Xuất phát từ nhu cầu đa dạng của du khách, các hoạt động du
lịch tâm linh nổi bật đang diễn ra là: tham quan và tìm hiểu các công trình kiến
trúc tín ngưỡng tôn giáo; tham dự các sự kiện liên quan đến các lễ hội gắn với
việc bày tỏ niềm tin vào tín ngưỡng và tôn giáo; du lịch hành hương; du lịch
thiền, du lịch tâm linh tưởng nhớ các anh hùng dân tộc…Rõ ràng, tiềm năng du lịch
tâm linh tại nước ta rất phong phú và đa dạng.
Vấn đề cần quan tâm là việc khai thác các giá trị văn hóa
tâm linh ngoài mục tiêu đóng góp mạnh mẽ cho việc phát triển kinh tế cần hướng
đến việc bảo tồn các giá trị văn hóa cùng hệ thống cảnh quan thiên nhiên được
“thiêng hóa” ở các địa điểm tâm linh, chia sẻ hợp lý lợi ích kinh tế cho cộng đồng
địa phương và nâng cấp chuỗi giá trị cho du lịch tâm linh.
2. Cơ sở lý luận
về du lịch tâm linh
Khái niệm du lịch tâm linh được nhiều nhà nghiên cứu trong
và ngoài nước đề cập đến. Tại Việt Nam có thể nhắc đến khái niệm du lịch tâm linh
của tác giả Nguyễn Văn Tuấn “Xét về nội dung và tính chất hoạt động, du lịch
tâm linh thực chất là loại hình du lịch văn hóa, lấy yếu tố văn hóa tâm linh vừa
làm cơ sở vừa làm mục tiêu nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người trong đời
sống tinh thần.
Theo cách nhìn nhận đó, du lịch tâm linh khai thác những yếu
tố văn hóa tâm linh trong quá trình diễn ra các hoạt động du lịch, dựa vào những
giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể gắn với lịch sử hình thành nhận thức của
con người về thế giới, những giá trị về đức tin, tôn giáo, tín ngưỡng và những
giá trị tinh thần đặc biệt khác.
Theo đó, du lịch tâm linh mang lại những cảm xúc và trải
nghiệm thiêng liêng về tinh thần của con người trong khi đi du lịch”(Nguyễn Văn
Tuấn, 2013, tr.1). Từ quan điểm trên, có thể nhận định du lịch tâm linh là một
hình thức biểu hiện của du lịch văn hóa.
Các giá trị văn hóa tâm linh là yếu tố cốt lõi để hình thành
nên các hoạt động du lịch và sản phẩm du lịch phục vụ cho du khách. Thông qua
việc thụ hưởng các giá trị văn hóa tâm linh du khách sẽ hình thành nên những
suy nghĩ tích cực hướng đến sự cân bằng và phát triển về mặt tinh thần.
Khái niệm của tác giả Nguyễn Văn Tuấn cũng khá gần gũi với sự
nhận định về du lịch tâm linh của nhóm
tác giả Nguyễn Trọng Nhân - Cao Mỹ Khanh, cụ thể nhóm tác giả này cho rằng:
“Phát triển du lịch văn hóa tâm linh ngoài mang lại các lợi ích kinh tế - xã hội
- văn hóa cho nơi đến như những loại hình du lịch khác, còn giúp những người thực
hiện chuyến du lịch hướng tinh thần của mình lên cao trong việc tìm kiếm mục
đích cao cả và những giá trị có khả năng nâng cao phẩm giá cho cuộc sống và bản
thân họ nếu sự phát triển du lịch diễn ra đúng hướng” (Nguyễn Trọng Nhân - Cao
Mỹ Khanh, 2014, tr.122).
Gần đây nhất có thể nhắc đến khái niệm du lịch tâm linh do
tác giả Hồ Kỳ Minh đề xuất: “Du lịch tâm linh hiện nay được thể hiện trên nhiều
cung bậc, nhiều dạng. Dạng thứ nhất, đó là những hoạt động tham quan, vãn cảnh
tại các cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng. Đây là dạng hẹp nhất, chưa thể hiện được ý nghĩa
của hoạt động du lịch này nhưng lại là hoạt động phổ biến nhất hiện nay; Dạng
thứ hai được mở rộng hơn với cách hiểu là tìm đến các địa điểm, cơ sở tín ngưỡng,
tôn giáo bên cạnh tham quan vãn cảnh thì còn để cúng bái, cầu nguyện. Dạng này
có mở rộng hơn nhưng mới chỉ phù hợp với những đối tượng có theo tôn giáo, tín
ngưỡng; Dạng thứ ba có mục đích chính là tìm hiểu các triết lý, giáo pháp khiến
cho con người trầm tĩnh, để tâm hồn thư thái, cải thiện sức khỏe và cảm nhận
chính bản thân mình” (Hồ Kỳ Minh, 2015, tr.5).
Thông qua nội hàm du lịch tâm linh của Hồ Kỳ Minh, có thể nhận
thấy các hình thức của du lịch tâm linh được phân cấp thông qua mức độ tham gia
của du khách. Nền tảng để có thể hình thành và phát triển du lịch tâm linh là
các cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng. Hay nói giá trị cốt lõi để xây dựng hoạt động
du lịch tâm linh là các cơ sở tín ngưỡng tôn giáo.
Du khách có thể thực hiện các hoạt động được phân cấp từ thấp
đến cao tại các cơ sở tôn giáo này bao gồm: ngắm nhìn; thực hiện nghi thức tôn
giá; tìm hiểu sân sắc và vận dụng các triết lý và niềm tin tôn giáo để hoàn thiện
đời sống tinh thần và nâng cao thể chất cho bản thân.
Như vậy, những không gian có thể chứa đựng các giá trị văn
hóa tâm linh bao gồm các công trình chùa, nhà thờ, thánh đường, thánh thất,
đình, chùa, miếu, phủ thờ, ... Các công trình này không những chứa đựng các giá
trị văn hóa tâm linh thuần túy mà còn là các điểm đến lưu giữ các giá trị nghệ
thuật kiến trúc đặc sắc.
Bên cạnh đó, du khách có nhu cầu tìm hiểu du lịch tâm linh
còn quan tâm đến sự kiện và các hoạt động thực hành niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng
và đức tin. Liên đới với nội dung này có thể nhắc đến các lễ hội gắn liền với
niềm tin tôn giáo và tín ngưỡng dân gian là yếu tố rất quan trọng để xây dựng
nên các hoạt động du lịch và sản phẩm du lịch tâm linh một cách ấn tượng.
Qua đó có thể thấy được các giá trị văn hóa tâm linh bao gồm
cả hai yếu tố được hình thành từ các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể.
Giá trị văn hóa tâm linh của điểm đến có tính trội khi đồng thời thụ hưởng được
cả hai yếu tố này.
Bên cạnh các quan điểm nghiên cứu trong nước, các tác giả nước
ngoài cũng đưa ra các quan điểm về du lịch tâm linh.
Cụ thể, nhà nghiên cứu Alex Norman đã có định nghĩa về du lịch
tâm linh ngắn gọn là: “du lịch tâm linh có đặc trưng là du khách sẽ cố tìm kiếm
lợi ích tinh thần thông qua việc thực hành nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng” (Alex
Norman, 2011, tr.193).
Riêng hai tác giả Farooq Haq - John Jackson cho rằng “khách du lịch tâm linh là đối tượng
đi đến một nơi cụ thể ngoài môi trường sinh sống của mình với ý định gia tăng ý nghĩa cho đời
sống tinh thần; có thể họ có tôn giáo hoặc không tôn giáo, thông qua chuyến đi
họ có trải nghiệm với môi trường tự nhiên tại điểm đến nhưng được đặt trong bối
cảnh có sự liên hệ với một đấng/nhân vật năng quyền nào đó” (Farooq Haq - John
Jackson, 2009, tr.142)
Tóm lại du lịch tâm linh là một hình thức biểu hiện của du lịch
văn hóa. Các giá trị văn hóa tín ngưỡng và tôn giáo là nền tảng quan trọng để
hình thành và phát triển hoạt động du lịch tâm linh. Mục đích của khách du lịch
tâm linh có thể chia thành nhiều thang bậc khác nhau nhưng xuất phát điểm của họ
có sự giống nhau là có sự tôn kính/niềm tin với một lực lượng siêu nhiên gắn liền
với một không gian văn hóa tín ngưỡng nhất định. Trải nghiệm của họ tại các
không gian linh thiêng sẽ có khả năng mang lại ý nghĩa quan trọng nhằm nâng cao
nhận thức, sự hiểu biết hoặc gia tăng niềm tin cho chính mình. Hơn thế nữa,
thông qua các hoạt động du lịch tâm linh du khách còn có kỳ vọng nâng cao trí lực và thể lực của bản thân.
3. Khái quát tình
hình phát triển du lịch tâm linh tại Việt Nam
3.1. Đặc điểm du lịch
tâm linh tại Việt Nam
Nhiều quan điểm thống nhất cho rằng du lịch tâm linh thực chất
là loại hình du lịch văn hóa. Đơn cử như việc công bố các thông tin về du lịch
tâm linh của Tổng cục du lịch Việt Nam: “Du lịch tâm linh lấy yếu tố văn hóa
tâm linh làm mục tiêu nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người trong đời sống
tinh thần. Do đó, việc sử dụng có trách nhiệm và bền vững các giá trị văn hóa
và tự nhiên trong phát triển du lịch tâm linh sẽ mang lại cơ hội việc làm, tạo
thu nhập cho người dân địa phương, góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa, tăng cường
tình đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo, khôi phục và bảo tồn các giá trị văn
hóa truyền thống của mỗi quốc gia cũng như toàn nhân loại”1. Như vậy, trước tiên có thể hình dung du lịch tâm
linh là một hình thức biểu hiện của du lịch văn hóa.
Theo tác giả Nguyễn Văn Tuấn (2013), du lịch tâm linh tại Việt
Nam có những đặc trưng khá riêng biệt, cụ thể:
Du lịch tâm linh gắn với tôn giáo và đức tin và ở Việt Nam,
trong đó Phật giáo có số lượng lớn nhất (chiếm tới 90%) cùng tồn tại với các
tôn giáo khác như Thiên Chúa giáo, Cao đài, Hòa Hảo... Triết lý phương Đông, đức
tin, giáo pháp, những giá trị vật thể và phi vật thể gắn với những thiết chế,
công trình tôn giáo ở Việt Nam là những ngôi chùa, tòa thánh và những công
trình văn hóa tôn giáo gắn với các di tích là đối tượng mục tiêu hướng tới của
du lịch tâm linh.
Du lịch tâm linh ở Việt Nam gắn với tín ngưỡng thờ cúng, tri
ân những vị anh hùng dân tộc, những vị
tiền bối có công với nước, dân tộc (Thành
Hoàng) trở thành du lịch về cội nguồn dân tộc với đạo lý uống nước nhớ
nguồn.
Du lịch tâm linh ở Việt Nam gắn tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên,
dòng tộc, tri ân báo hiếu đối với bậc sinh thành.
Du lịch tâm linh ở Việt Nam gắn với những hoạt động thể thao tinh thần như thiền,
yoga hướng tới sự cân bằng, thanh tao, siêu thoát trong
đời sống tinh thần, đặc trưng và tiêu biểu ở Việt Nam mà không nơi nào
có đó là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Ngoài ra du lịch tâm linh ở Việt Nam còn có những hoạt động
gắn với yếu tố linh thiêng và những điều huyền bí (Nguyễn Văn Tuấn, 2013,
tr.2).
Qua đó có thể thấy được, tài nguyên du lịch tâm linh có tính
hấp dẫn và đặc trưng rất độc đáo. Nhìn rộng hơn, tài nguyên du lịch tâm linh có
tính bản sắc cao vì thường gắn liền với
văn hóa tộc người. Mỗi cộng đồng dân tộc lại có những biểu hiện văn hóa đặc sắc
thông qua việc tổ chức đời sống sản xuất và sinh hoạt tinh thần, đặc biệt là
tín ngưỡng và tôn giáo. Dựa vào tính chất
này, có thể nói tài nguyên du lịch tâm linh là một trong những nội lực quan trọng
để hình thành nên sản phẩm du lịch đặc thù cho địa phương.
Đặc điểm tiếp theo có thể dễ dàng nhận thấy, du lịch tâm
linh có tính mùa vụ rõ nét. Vào mùa cao điểm nhất là dịp các sự kiện, lễ hội lớn
được tổ chức tại các không gian văn hóa
tâm linh vấn đề sức chứa là vấn đề cần được tính toán kỹ lưỡng cho hoạt động du lịch tâm linh.
Khách du lịch tâm linh trong nước có thành phần đa dạng (từ khách có khả năng chi
trả thấp đến cao). Nhưng khách du lịch tâm linh ra nước ngoài thường là khách
có khả năng chi trả cao và khi họ hoàn thành chuyến đi họ có những niềm tin và
vị thế phát triển một cách vượt bật
trong cộng đồng có cùng niềm tin về tôn giáo.
Đối với du khách tham gia vào các tuyến du lịch tâm linh có
sự phân hóa theo hoạt động và đặc điểm tôn giáo của họ. Trước tiên nếu đoàn du
khách có cùng niềm tin tôn giáo và có mục đích thực hành nghi lễ tôn giáo thì
tuyến du lịch tâm linh có bản chất là tuyến du lịch chuyên đề vì thế trong một
hành trình du lịch tâm linh có thể xuất hiện nhiều điểm tham quan du lịch có
tính chất văn hóa tâm linh khá tương đồng hoặc sự mâu thuẫn về niềm tin là rất
hạn chế. Ngược lại nếu đoàn du khách tham gia vào hoạt động du lịch tâm linh chỉ
dừng lại ở mức độ tham quan và tìm hiểu và không có nhu cầu thực hành nghi lễ
tôn giáo thì tuyến du lịch tâm linh rõ ràng có thể kết hợp nhiều điểm tham quan
du lịch tâm linh có tính chất khác nhau và lúc này du lịch tâm linh là một biểu
hiện thường gặp của loại hình du lịch văn hóa.
Cuối cùng có thể thấy rằng du lịch tâm linh có mục đích hướng
thiện rất rõ nét nhằm điều chỉnh nhận thức, thái độ và hành vi của người tham
gia.
3.2. Thực tiễn du lịch
tâm linh tại Việt Nam
Hiện nay, tại Việt Nam xuất hiện các hình thức du lịch tâm
linh tiêu biểu: tham quan và tìm hiểu các công trình kiến trúc tín ngưỡng tôn
giáo; tham dự các sự kiện liên quan đến các lễ hội gắn với việc bày tỏ niềm tin
vào tín ngưỡng và tôn giáo; du lịch hành hương; du lịch thiền, du lịch tâm linh
tưởng nhớ các anh hùng dân tộc.
Trong số 32,5 triệu khách du lịch nội địa năm 2012 chỉ tính
riêng số khách đến các điểm tâm linh (chùa, đền, phủ, tòa thánh) có khoảng 13,5
triệu lượt, tương đương 41,5%. Một số điểm du lịch tâm linh tiêu biểu năm 2012
đón một lượng khách lớn như Miếu Bà Chúa Xứ An Giang (3,6 triệu lượt khách),
Chùa Hương (1,5 triệu lượt); Chùa Bái
Đính (2,1 triệu lượt), Yên Tử
(2,3 triệu lượt), khu du lịch Núi Bà Đen (2,2 triệu lượt); Cô Sơn Kiếp Bạc
(1,2 triệu). Đối với khách quốc tế đến
Việt Nam với mục đích tâm linh không nhiều, trong số 6,8 triệu lượt
khách đến Việt Nam năm 2012 ước tính có khoảng 12% khách du lịch có đến các điểm
du lịch tâm linh (Nguyễn Văn Tuấn, 2013, tr.3).
Với sự xuất hiện của các công trình tín ngưỡng tôn giáo dày
đặc, Việt Nam có lợi thế lớn trong việc khai thác các điểm đến này phục vụ cho
mục tiêu phát triển du lịch. Gần như trong các chương trình du lịch tổ chức tại
Việt Nam đều xuất hiện tối thiểu một công trình tín ngưỡng tôn giáo đặc sắc.
Đơn cử như ở Hà Nội có tứ trấn thành Thăng Long (đền Quán Thánh, đền Kim Liên,
đền Voi Phục, đền Bạc Mã), chùa Trấn Quốc, chùa Hương; ở Ninh Bình có chùa Bái
Đính, nhà Thờ Phát Diệm; ở Nam Định có đền Trần; ở Quảng Trị có nhà thờ La
Vang; ở Huế có chùa Thiên Mụ, chùa Từ Hiếu, điện Hòn Chén; ở Đà Nẵng có “tam
giác tam linh” (3 ngôi chùa Linh Ứng ở Bà Nà, Ngũ Hành Sơn và bán đảo Sơn Trà);
ở Nha Trang có chùa Long Sơn, nhà thờ Chánh Tòa Nha Trang (còn gọi là nhà thờ
núi hay nhà thờ đá), tháp Bà Po Nagar; ở Ninh Thuận có tháp Po Klong Giarai; ở
Bình Thuận có dinh Vạn Thủy Tú, tháp Po Shanư; ở Đà Lạt có nhà thờ Con Gà, nhà
thờ Domain De Maria; ở thành phố Hồ Chí Minh có chùa Giác Lâm, miếu Bà Thiên Hậu,
nhà thờ Đức Bà; ở Tây Ninh có Tòa Thành Cao Đài, đền Linh Sơn núi Bà Đen; ở Bà
Rịa - Vũng Tàu có dinh Cô; ở An Giang có
miếu Bà Chúa Xứ, chùa thầy Tây An, An Hòa Tự, ở Tiền Giang có chùa Vĩnh Tràng, ở
Sóc Trăng có Chùa Dơi, chùa Chén Kiểu; ở Bạc Liêu có nhà thờ Tắc Sậy,...
Khi tiếp cận các công
trình kiến trúc này, du khách có cơ hội tìm hiểu các giá trị cốt lõi về mặt văn
hóa nhận thức, văn hóa ứng xử và văn hóa tổ chức của cộng đồng địa phương và
tín đồ của các tôn giáo. Hơn thế nữa các công trình này thường được phân bố tại
những nơi có cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn. Chính yếu tố này giúp cho du khách
có được những trải nghiệm thú vị khi tiếp cận với các không gian văn hóa tâm
linh.
Bất cứ tín ngưỡng và tôn giáo nào tại Việt Nam đều có những
sự kiện lớn trong năm. Thời điểm tổ chức các lễ hội là mùa cao điểm cho hoạt động
du lịch tâm linh. Các sự kiện tiêu biểu bao gồm:
Bảng 1. Các sự kiện văn hóa tâm linh tiêu biểu tại Việt Nam
STT
|
Tên sự kiện
|
Địa điểm
|
Thời gian
|
Ghi chú
|
1
|
Lễ hội Chùa Hương
|
Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Nội
|
Từ mùng 6
tháng giêng đến
15 tháng 3 âm lịch (Chính hội từ 15
đến 20
tháng 2 âm lịch)
|
Giá trị văn hóa tâm linh cốt lõi: sùng bái Đức Phật Thích
Ca, Phật Bà Quan Thế Âm, Mẫu (Tứ phủ)
Điểm nhấn khung cảnh thiên nhiên: Suối Yến, động Hương
Tích
|
2
|
Lễ hội đền Hùng
|
Hy Cương, Việt Trì,
Phú Thọ
|
Từ ngày 8 đến ngày 11 tháng 3 âm lịch (Chính lễ 10 tháng
3)
|
Giá trị văn hóa tâm linh cốt lõi: tín ngưỡng thờ Hùng
Vương – di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại vào năm 2012
Điểm nhấn khung cảnh thiên nhiên: núi Nghĩa Lĩnh
|
3
|
Lễ hội Gióng
|
Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội (Ngoài ra còn có ở Sóc Sơn)
|
Ngày 9 tháng 4 âm lịch
|
Giá trị văn hóa tâm linh cốt lõi: tưởng niệm Phù Đổng
Thiên Vương (tứ bất tử), gắn với lễ hội cầu mưa
Điểm nhấn khung cảnh thiên nhiên: đê hàng tổng nối dài các
làng Phù Dực, Phù Đổng, Đồng Viên, miếu Ban, Soi Bia và Đống Đàm.
|
4
|
Lễ khai ấn đền Trần
|
Phường Lộc Vương, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định
|
Giữa đêm 14 và mở đầu cho ngày 15 tháng giêng âm lịch
|
Giá trị văn hóa tâm linh cốt lõi: suy tôn ca ngợi công đức
Nhà Trần
Hoạt động văn hóa đặc sắc: múa Bài Bông
|
5
|
Lễ hội La Vang
|
Hải Phú,huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị
|
Trung tuần tháng 8 dương lịch hành năm
|
Giá trị văn hóa tâm linh cốt lõi: trung tâm văn hóa tâm
linh nổi bật của Giáo hội Công giáo Việt Nam, suy kính Đức Mẹ Maria
Hoạt động văn hóa tâm linh đặc sắc: đêm canh
|
|
|
|
|
thức cầu nguyện trong những lều trại và rước kiệu vòng
quanh quảng trường Mâm Côi.
|
6
|
Lễ hội điện Hòn Chén
|
Hải Cát, Hương Trà, Thừa Thiên
Huế
|
Tháng 2 (xuân tế) và tháng 7 (thu tế) âm lịch
|
Giá trị văn hóa tâm linh cốt lõi: suy tôn Thiên Y A Na
Thánh Mẫu
Điểm nhấn khung cảnh thiên nhiên: núi Ngọc Trản, sông
Hương
|
7
|
Lễ hội tháp Bà Po Na Gar
|
Vĩnh Phước, Nha Trang, Khánh Hòa
|
Ngày 20 đến 23 tháng 3 âm lịch
|
Giá trị văn hóa tâm linh cốt lõi: suy tôn Thiên Y A Na
Thánh Mẫu.
Điểm nhấn khung cảnh thiên nhiên: dòng sông Cái
|
8
|
Lễ hội Nghinh Ông
|
Cần Thạnh, Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh
|
Ngày 15 đến ngày 17 tháng 8 âm lịch
|
Giá trị văn hóa tâm linh cốt lõi: thờ cúng cá Ông
Điểm nhấn khung cảnh thiên nhiên: vùng phụ cận là rừng ngập
mặn, biển
|
9
|
Lễ hội đền Linh Sơn
|
Núi Bà Đen, Thạnh Tân, Hòa Thành, Tây Ninh
|
Hội Xuân từ ngày 15 đến 18 tháng giêng âm lịch
Lễ vía Bà mùng 5 đến mùng 6 tháng 5 âm lịch
|
Giá trị văn hóa tâm linh cốt lõi: suy tôn Linh Sơn thánh Mẫu
Điểm nhấn khung cảnh thiên nhiên: Núi Bà Đen
|
10
|
Lễ hội Nginh Cô (lễ rước Bà
Thủy)
|
Thị trấn Long Hải, Long Điền, Bà Rịa Vũng Tàu
|
Ngày 10 đến 12 tháng 2 âm lịch
|
Giá trị văn hóa tâm linh cối lõi: tín ngưỡng thờ mẫu, thờ “Cô”
(Cô có tên là Lê Thị Hồng Thủy) hiển linh giúp người, thờ Ngũ Vị Nương Nương, Tứ Pháp Nương Nương Điểm nhấn khung cảnh thiên nhiên: Bãi biển
|
11
|
Lễ vía Bà Chúa Xứ
|
Núi Sam, Châu Đốc, An Giang
|
Từ ngày 23 đến 27 tháng 4 âm lịch
|
Giá trị văn hóa tâm linh cốt lõi: suy tôn Bà Chúa Xứ
Điểm nhấn khung cảnh thiên nhiên: núi Sam, cánh đồng lúa,…
|
Nguồn: Kết quả khảo sát thực địa từ năm 2010-2016
Một trong những cực trọng điểm du lịch tâm linh của Việt Nam
thu hút đông đảo du khách vào mùa lễ hội là quần thể di tích núi Sam Châu Đốc.
Quần thể du lịch lịch sử - văn hóa núi Sam với tổng diện
tích 2 ha, hàng năm nơi đây thu hút khoảng 4.000.000 lượt khách hành hương và
tham quan2. Cụ thể theo thống kê của Phòng Văn hóa Thông tin - Ủy ban nhân dân
thành phố Châu Đốc, nguồn khách tham quan và doanh thu trong 2 năm 2014, 2015
như sau: năm 2014: 4.200.000 lượt khách, thu phí tham quan được 19.967.100.000
đồng; năm 2015: 4.274.800 lượt khách, thu phí tham quan được 30.411.210.000 đồng3.
Mùa cao điểm du lịch tâm linh tại quần thể du lịch núi Sam
diễn ra từ sau tết Nguyên Đán kéo dài cho đến hết tháng 4 âm lịch hàng năm. Do
đây là mùa vía Bà Chúa Xứ4. Trong thời gian này khu vực núi Sam đón tiếp khoảng
3 triệu lượt khách 5.
Thông qua việc quan sát và tiếp cận du khách; khảo sát các
đơn vị cung ứng dịch vụ du lịch tại các
không gian văn hóa tâm linh ở An Giang bằng phương pháp phỏng vấn sâu tại quần
thể di tích núi Sam Châu Đốc 6, tác giả nhận thấy số lượng du khách có sự gia
tăng đáng kể về mặt số lượng vào các lễ hội nhưng hành vi tiêu thụ các dịch vụ
du lịch (lưu trú, ẩm thực, tham quan các điểm du lịch lân cận) chưa phong phú
và đa dạng dẫn đến việc chi trả của
khách du lịch tâm linh nhìn chung là chưa cao.
Một trong những hạn chế cho thực trạng nêu trên là năng lực
cung ứng các hoạt động và dịch vụ du lịch cho khách du lịch tâm linh chưa thật
sự tinh tế và hấp dẫn. Bên cạnh đó là do thói
quen tiêu dùng của khách du lịch
tâm linh chủ yếu chi trả cho việc sắm lễ, việc quan tâm các dịch vụ khác còn hạn
chế.
Vào mùa lễ hội, số lượng du khách xuất hiện đông đảo, nếu tổ
chức, quản lý và triển khai các hoạt động du lịch không khéo léo sẽ là cơ hội
làm nảy sinh các hiện tượng chèo kéo, trộm cắp, mất an ninh trật tự, mê tín dị
đoan từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh của địa phương trong tầm mắt du khách gần xa.
Vấn đề sức chứa tại các điểm du lịch tâm linh vào mùa cao điểm
cũng là vấn đề nan giải cho việc quản lý và phát triển du lịch hiên nay. Ví dụ,
quần thể di tích núi Sam tại Châu Đốc - An Giang có diện tích là 2ha. Ngày cao điểm nhất tại
khu vực núi Sam có thể đón đến 72.000 lượt khách7. Như vậy sức chứa vào ngày
cao điểm nhất tại núi Sam là 72.000 lượt khách/2ha (72.000 lượt khách/20.000m2)
tức là 3,6 khách/m2. Rõ ràng sức ép của khách du lịch tâm linh vào mùa cao điểm
là rất lớn.
Việt Nam là nơi xuất hiện các tín ngưỡng và tôn giáo nội
sinh như: tín ngưỡng thờ Hùng Vương, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương, đạo
Cao Đài, đạo Hòa Hảo… Đây là điều kiện hình thành các dòng du khách hành hương
tại Việt Nam về với cội nguồn khai đạo. Đặc biệt là các dòng du khách Việt Kiều
sinh sống tại hải ngoại thường xuyên phát động các phong trào du lịch hành
hương kết hợp với từ thiện tại Việt Nam.
Một hình thức du lịch tâm linh khác là hình thức du lịch thiền
vừa nâng cao trí lực vừa góp phần nâng cao thể lực cho du khách. Tại Việt Nam
các thiền viện theo tinh thần thiền phái Trúc Lâm là địa điểm khởi xướng cho
hình thức du lịch này. Tiêu biểu là các thiền viện Trúc Lâm ở Yên Tử (Quảng
Ninh), Đà Lạt (Lâm Đồng),…
Hình thức khác của du lịch tâm linh tạo những giá trị cảm
xúc tích cực nhằm giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn tưởng nhớ người có
công là các hoạt động như: viếng mộ chị Võ Thị Sáu (Côn Đảo – Bà Rịa Vũng Tàu),
viếng mộ liệt sĩ tại nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn,…
Như vậy các hình thức du lịch tâm linh tại Việt Nam khá đa dạng
và phong phú. Từ đó có thể thấy được du lịch tâm linh đóng một vai trò rất quan
trọng trong loại hình du lịch văn hóa ở nước ta. Với thế mạnh sẵn có Việt Nam
hoàn toàn có thể khai thác và phát triển du lịch tâm linh sao cho gia tăng lợi
ích kinh tế nhưng vẫn cần đảm bảo hài hòa về vấn đề bảo tồn cảnh quan thiên
nhiên và các giá trị văn hóa xã hội.
Nguồn thông tin dữ liệu
1 http://www.vietnamtourism.com/index.php/news/items/10680
2 Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch An Giang, 2014, Tổng thể
phát triển ngành du lịch An Giang giai đoạn từ 2014 đến 2020, tầm nhìn đến
2030, dòng 23 trang 22
Nguồn: Kết quả khảo sát thực địa từ năm 2010-2016 Thông tin
- Ủy ban nhân dân thành phố Châu Đốc, nguồn khách tham quan và doanh thu trong
2 năm 2014, 2015 như sau: năm 2014: 4.200.000 lượt khách, thu phí tham quan được
19.967.100.000 đồng; năm 2015: 4.274.800 lượt khách, thu phí tham quan được
30.411.210.000 đồng3.
3 Phòng Văn hóa Thông tin - Ủy ban nhân dân thành phố Châu Đốc,
Kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 18/01/2013 của Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh An Giang và Kế hoạch số 53-KH/TU ngày 26/4/2013 của Ban chấp
hành Đảng bộ Mùa cao điểm du lịch tâm linh tại quần thể du lịch núi Sam diễn ra
từ sau tết Nguyên Đán kéo dài cho đến hết tháng 4 âm lịch hàng năm. Do đây là
mùa vía Bà Chúa Xứ
4 Kết quả phỏng vấn sâu đại diện lãnh đạo Sở Văn hóa Thể
thao và Du lịch An Giang vào lúc 8 giờ 30 ngày 09 tháng 06 năm 2016.
5 Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch An Giang, 2014, Địa chí du
lịch An Giang, dòng 11 trang 229.
6 Phỏng vấn sâu du khách, các cơ sở cung ứng dịch vụ du lịch
tại núi Sam vào các đợt 5/2016 và 9/2016. có thể đón đến 72.000 lượt khách
7. Như vậy sức chứa vào ngày cao điểm nhất tại núi Sam là 72.000
lượt khách/2ha (72.000 lượt khách/20.000m2) tức là 3,6 khách/m2. Rõ ràng sức ép
của khách du lịch tâm linh vào mùa cao điểm là rất lớn.
7 Ý kiến bà Trần Thị Tuyết Em, Trưởng BQL Khu du lịch núi
Sam (Châu Đốc), dẫn theo báo Công An Nhân Dân: http://cand.com.vn/Hoat-dong-LL-CAND/dam-bao-an-toan-
mua-du-lich-tam-linh-382574/
4. Khuyến nghị
Qua những phân tích về hoạt động du lịch tâm linh tại Việt
Nam có thể hình dung hoạt động du lịch
tâm linh ở nước ta chủ có nhiều tiềm năng để phát triển. Tuy nhiên việc khai
thác và phát triển du lịch tâm linh chỉ đang dừng lại ở việc thu hút khách về mặt
số lượng nhưng chưa phát huy hết những lợi thế của điểm đến để đẩy mạnh chất lượng
du lịch nhằm gia tăng nguồn thu.
Đồng thời khách du lịch tâm linh xuất hiện đông sẽ gây ra
các áp lực cho điểm đến và là thách thức lớn cho bài toán đảm bảo sức chứa trong
du lịch.
Như vậy, nhiệm vụ quan trọng cần thiết làm tìm cách khai
thác và phát triển du lịch bằng cách nâng cao chất lượng dịch vụ, kích cầu cho
du khách nhằm nâng cấp chuỗi giá trị du lịch tâm linh. Liên đới đến nhiệm vụ
này, các công việc cần thực hiện là xây dựng chiến lược khai thác và phát triển
du lịch tâm linh thông qua việc điều tra, khảo sát và đánh giá: hệ thống tài
nguyên du lịch tâm linh; khả năng cung ứng về mặt dịch vụ du lịch; cơ chế chính
sách quản lý khai thác và phát triển; nguồn nhân lực và sự tham gia của cộng đồng
địa phương tại chỗ.
Việc làm tiếp theo là cần tính toán việc quản lý sự tham gia
của du khách vào mùa cao điểm nhằm đảm bảo sức chứa. Khi sức chứa được đảm bảo
sẽ góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa - tự nhiện tại điểm đến.
Có nhiều việc làm cấp bách cần được triển khai, nhưng hai
trách nhiệm chính nói trên là việc làm cần thiết để giúp cho các địa phương
khai thác và phát triển một cách bền vững hoạt động du lịch văn hóa - tâm linh
một cách bền vững.
|
Tiếng Việt:
|
|
Tiếng nước ngoài:
|
[1].
|
Hồ Kỳ Minh (chủ nhiệm), 2013, Nghiên cứu và đề xuất giải
pháp phát triển loại hình du lịch văn hóa tâm linh trên địa bàn tỉnh Quảng Trị,
Đề tài khoa học công nghệ cấp tỉnh, Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội
Đà Nẵng
|
[5].
|
Alex Norman, 2011, Spiritual Tourism: Travel and Religious
Practice in Western Society, Continuum Advances in Religious Studies, pp. 193-196
|
|
|
|
|
|
|
|
[6].
|
Farooq Haq and John Jackson, 2009 , Spiritual Journey to
Hajj: Australian and Pakistani Experience and Expectations, Journal of Management,
Spirituality and Religion, Vol. 6, No. 2, pp. 141-156
|
[2].
|
Nguyễn Trọng Nhân – Cao Mỹ Khánh, 2014, Đánh giá của du
khách đối với những điều kiện phát triển du lịch văn hóa tâm linh tỉnh An
Giang, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân
văn và Giáo dục
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Website :
|
|
[7].
|
http://sss.ctu.edu.vn/documen/2014_32_(121-
|
[3].
|
Nguyễn Văn Tuấn – Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch , 2013,
Tham luận tham dự Hội nghị quốc tế về du lịch tâm linh vì sự phát triển bền vững
(Ninh Bình, 21-22/11/2013)
|
|
128).pdf
|
|
[8].
|
http://www.vietnamtourism.com/index.php/ne
|
|
|
ws/items/10680
|
|
[9].
|
http://cand.com.vn/Hoat-dong-LL-
CAND/dam-bao-an-toan-mua-du-lich-tam- linh-382574/
|
[4].
|
Phòng Văn hóa Thông tin - Ủy ban nhân dân thành phố Châu Đốc,
Kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết số11-NQ/TU ngày 18/01/2013 của Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh
An Giang và Kế hoạch số 53-KH/TU ngày 26/4/2013 của Ban chấp
hành Đảng bộ thị xã (nay là thành phố Châu Đốc) về đẩy mạnh phát triển du lịch
trên địa bàn đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020
|
|
|
|
|
[10].
|
https://journals.equinoxpub.com/index.php/IJS
NR/article/view/21112/pdf
|
|
|
|
[11].
|
http://www.duplication.net.au/ANZMAC09/pa
pers/ANZMAC2009-009.pdf
|
|
|
|
[12].
|
http://sanctuaries.noaa.gov/management/intern
ational/pdfs/day1_concepts_manual_viet.pdf
|
|
|