(Dân Việt) Cách Manhattan chưa đến một dặm, một trong những nơi đông đúc nhất và đông dân nhất thế giới vẫn tồn tại một hòn đảo nhỏ đã bị bỏ rơi gần 55 năm trước. Hòn đảo này lần đầu tiên được biết đến vào năm 1614, có người ở vào năm 1885, và lịch sử của nó được đánh dấu bằng cái chết, bệnh tật và sự hoang tàn.
Đảo Bắc Brother là một trong những di sản và địa điểm tự nhiên kỳ lạ và ít được biết đến nhất của thành phố New York. Hòn đảo sở hữu lô đất rộng 22 mẫu Anh, nằm giữa bờ biển công nghiệp của South Bronx và Trung tâm Cải huấn Đảo Riker - nhà tù khét tiếng nhất của Thành phố New York.
Hầu như không ai được phép ở North Brother Island và bạn đồng hành nhỏ hơn của nó, South Brother Island, ngoại trừ chim. Nhưng thậm chí ngay cả lũ chim dường như không muốn sống giữa các hòn đảo đổ nát, bị bỏ rơi này. Cách duy nhất để đến North Brother Island là bằng thuyền. Rời khỏi Barretto Point Park ở South Bronx là một trong những nơi nhanh nhất để đến đó. Cũng không ai được phép thăm đảo mà không có sự cho phép và kèm người hộ tống từ Sở Công viên và Giải trí thành phố New York, nơi quản lý khu vực này như một khu bảo tồn chim.
Ngay khi lên đến hòn đảo, người ta sẽ nhìn thấy bến tàu và bến phà rỉ sét, sẵn sàng sụp đổ bất cứ lúc nào.
Với lịch sử khá đau thương, hòn đảo từng là một nơi sinh sống sầm uất với các nhà lớn rất đông công nhân náo nhiệt. Tuy nhiên, vào tháng 6 /1904, một tàu hơi nước tên General Slocum bốc cháy và bị chìm gần đảo. Chỉ có 321 người sống sót, và các thi thể của 1.021 người bị dạt vào bờ trong nhiều ngày, đây chính là mầm mống gây ra một loạt bệnh dịch. Đồng thời trên đảo xuất hiện bệnh lao, rất nhiều người đã chết vì căn bệnh này. Từ những năm 1905 đến 1943, thành phố đã cách ly những người bị bệnh rất dễ lây lan trên đảo.
Những người đã chết được cất giữ trong nhà xác, nhưng bệnh vẫn cứ hoành hành. Hòn đảo vật lộn để tìm một vắc xin bệnh lao xuất hiện vào năm 1943, các binh sĩ được điều tới để giúp đỡ người dân. từ 1952 đến 1963 chính quyền đảo đã cố gắng tái tạo lại sau thời điểm khó khăn. Nhưng bệnh nhân không nhận được sự giúp đỡ cần thiết khi trở về nhà sau 3 đến 5 tháng điều trị, chương trình được coi là một thất bại.
Cư dân bỏ đi dần hết vào năm 1963, và chính quyền thành phố nhận lại sự chăm sóc hòn đảo này. Thiếu sự quản lý đã làm cho hòn đảo trở thành một căn cứ cướp bóc của những kẻ du đãng, phá hoại. Cho đến ngày nay, chính quyền New York vẫn chưa tìm ra cách hiệu quả để cư dân có thể trở lại sinh sống tại hòn đảo này.
Phần lớn thiết bị đã bị bỏ lại khi hòn đảo bị bỏ hoang vào năm 1963. Nhưng các dấu hiệu của việc thăm viếng bất hợp pháp bị rải rác, bao gồm cả graffiti này trên một sân bóng tường.
Một số cơ sở gần như không thể nhận ra. Các tòa nhà của hòn đảo trước đây là văn phòng, công xưởng, ký túc xá... Bây giờ nó chìm, bao phủ trong tảo bẹ, và hoàn toàn ngập nước khi thủy triều cao.
Đường phố và vỉa hè hầu như không thể nhận ra do sự phát triển quá mức của cây xanh mọc lan tràn. Mặc dù vẫn còn những dấu hiệu của việc cư trú trước đó ở khắp mọi nơi. Những cây nho kudzu xâm lấn đến từ châu Á, bò và xâm nhập vào nhiều ngóc ngách của hòn đảo.
Xa hơn xuống con đường chính là Ký túc xá Nam. Nó cũng được xây dựng vào năm 1885, và có cây mọc qua mái nhà của nó. Ký túc xá nam này từng trở thành một trường mẫu giáo cho con cái các gia đình cựu chiến binh sống trên đảo trong cuộc khủng hoảng nhà ở sau Đại chiến thế giới thứ hai, từ 1946 đến 1951. Sau năm 1951 và cho đến khi hòn đảo bị bỏ rơi, tòa nhà được sử dụng làm trung tâm cai nghiện ma tuý.
Rất ít loài động vật dường như sống ở đây, và một quan chức của Parks and Recreation nói rằng động vật có vú thực tế không tồn tại, không hề có chuột và các loại động vật tương tự.
Tòa nhà lớn nhất trên đảo là một trong những tòa nhà cuối cùng được hoàn thành: The Tuberculosis Pavilion. Nó là một tòa nhà bốn tầng rộng 83.000 mét vuông được thiết kế để trang bị cho những người bị bệnh lao, nhưng sau đó Thế chiến II nổ ra. Cơ sở 1,2 triệu đô la đã được hoàn thành vào năm 1943 và chưa bao giờ điều trị bệnh nhân lao.