Thần phả của đình làng Lệ Mật ghi rằng, một hôm, công chúa con vua Lý Thái Tông dạo chơi trên sông Thiên Ðức thì bị một con thủy quái làm lật thuyền, công chúa mất tích. Một chàng trai ven sông Thiên Ðức là Hoàng Ðức Trung đã diệt thủy quái, tìm được thi thể công chúa. Sau này, dân làng Trù Mật thờ ngài là Thành hoàng.
Ghi công người xây dựng Thăng Long thời mở đầu
Thần phả
của đình làng Lệ Mật ghi rằng, một hôm, công chúa con vua Lý Thái Tông
dạo chơi trên sông Thiên Ðức thì bị một con thủy quái làm lật thuyền,
cướp mất công chúa. Nhà vua đã huy động nhiều tướng tài cùng thiên binh
vạn mã nhưng đều bất lực. Bỗng lúc ấy, có một chàng trai ven sông Thiên
Ðức xin được đi cứu công chúa. Vốn nghề chài lưới, lại có sức khỏe phi
thường, chàng trai lặn xuống đáy sông chiến đấu với thủy quái và mang
được thi hài công chúa về. Chàng trai có công vớt ngọc thể công chúa đó
là Hoàng Ðức Trung, sau này, được dân làng Trù Mật thờ làm Thành hoàng.
Nhà
vua ban ơn nhiều của cải, gấm vóc, nhưng chàng trai không nhận. Lúc đó,
vương triều Lý định đô ở Thăng Long chưa lâu, vùng phía tây kinh thành
còn hoang vắng, chàng trai họ Hoàng xin vua cho dân làng được khai phá
vùng đất này. Ðược sự đồng ý của nhà vua, chàng trai họ Hoàng đưa dân
làng mình khai phá đất hoang, lập ra 13 làng trại, tục gọi là Thập tam
trại, gồm các làng: Vĩnh Phúc, Ngọc Khánh, Cống Yên, Ngọc Hà, Ðại Yên,
Liễu Giai, Giảng Võ, Cống Vị, Vạn Phúc, Thủ Lệ, Xuân Biểu, Hữu Tiệp và
Kim Mã. Thập tam trại xưa, nay là các phường thuộc quận Ba Ðình.
Tưởng
nhớ công ơn của tiền nhân, ngoài tôn thờ Hoàng Ðức Trung làm Thành
hoàng, dân làng Trù Mật còn sáng tạo điệu múa giảo long, nhằm nhắc lại
công tích đánh thủy quái khi xưa của ông. Làng Trù Mật xưa là Lệ Mật
ngày nay, thuộc phường Việt Hưng, quận Long Biên. Ðình làng là ngôi đình
lớn, kết cấu tới hơn 50 gian và đã được công nhận là Di tích lịch
sử-văn hóa quốc gia.
Ðể chuẩn bị cho múa giảo long, dân làng đan
một con giảo long lớn bằng mây tre, phủ vải ra ngoài. Giảo long được
trang trí vân mây trên nền xanh da trời, đầu có mào và chiếc lưỡi đỏ
khổng lồ. Vào ngày chính hội (từ 19 đến 23-3 âm lịch hằng năm), múa giảo
long luôn thu hút đông đảo nhân dân tới xem. Mở đầu bằng màn dạo chơi
của công chúa nhà Lý, sau đó, con giảo long xuất hiện và "nuốt chửng"
nàng công chúa xinh đẹp. Quân tướng triều đình được huy động đến chiến
đấu với thủy quái. Các tráng đinh múa giảo long ở tư thế trườn bò nhưng
đẹp mắt và dũng mãnh. Sôi nổi hơn cả là màn chiến đấu của chàng trai trẻ
họ Hoàng với giảo long, những động tác vũ thuật đẹp mắt diễn ra trong
tiếng hò reo vang dội, cuối cùng, chàng trai chiến thắng thủy quái, rước
công chúa hồi cung.
Múa giảo long là một hình thức diễn xướng
dân gian huy động tới 50 người tham gia. Trong đó, đặc biệt là những
người vào vai dũng sĩ họ Hoàng, công chúa và sáu người đội lốt giảo
long. Do câu chuyện về vị Thành hoàng Hoàng Ðức Trung gắn với vương
triều Lý, nhất là thời kỳ xây dựng và mở rộng kinh đô về phía tây, nên
việc gìn giữ, bảo tồn múa giảo long được coi là nhiệm vụ quan trọng của
nhân dân Lệ Mật nói riêng, nhân dân Hà Nội nói chung hướng tới Ðại lễ kỷ
niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Những mỹ tục của đất văn hiến nghìn năm
Dân làng dâng lễ lên Thành hoàng.
Sự
thật về trận chiến với thủy quái cứu công chúa chưa ai dám khẳng định,
nhưng có một điều chắc chắn, chàng trai họ Hoàng là người khai phá vùng
đất phía tây kinh thành Thăng Long. Một trong những bằng chứng là gần
một nghìn năm đã trôi qua, nhân dân vùng Thập tam trại khi xưa vẫn tự
hào mỗi khi nhắc về chàng dũng sĩ có công mở làng. Cứ đến hội làng Lệ
Mật, giữ phong tục "uống nước nhớ nguồn", nhân dân vùng Thập tam trại cũ
lại vượt dòng sông Hồng để về cựu quán - quê hương của người có công mở
làng Hoàng Ðức Trung, dâng lễ vật lên ông tổ của mình. Trong ngày ấy,
mọi người đều nhớ câu ca xưa:
Nhớ ngày 23 tháng 3
Dân trại ta vượt Nhị Hà thăm quê
Kinh quán, cựu quán đề huề
Hồ Tây cá nhảy đi về trong mây.
Hằng năm, trước ngày hội, dân làng bao giờ cũng tổ chức đánh cá chép ở
giếng làng. Tương truyền, đó là cá chép hồ Tây công chúa ban tặng.
Những
nghi thức chung quanh điệu múa giảo long luôn được người Lệ Mật thực
hiện với lòng thành kính và đã trở thành những tục lệ đẹp. Ông Hoàng
Ngọc Dậu, người nhiều năm liên tục tham gia múa giảo long cho biết:
"Thời trẻ, tôi vào vai dũng sĩ họ Hoàng, sau này, tôi vào vai tướng nhà
Lý. Khó nhất là chọn "công chúa". Gái làng xưa quen việc đồng áng, nay
đi làm công nhân nên phải luyện tập để múa sao cho dẻo. Nhưng cô công
chúa năm nay có đẹp, có dẻo đến mấy thì sang năm, lại phải tìm một công
chúa khác, tục truyền xưa nay đều thế".
Sau bao nhiêu biến đổi
của lịch sử, Lệ Mật còn giữ được một phong tục đẹp khác, đó là tục "điển
văn". Ðây là nghi lễ viết văn tế Thành hoàng. Trước ngày hội, dân làng
làm lễ xin phép Thành hoàng để một người hay chữ trong làng được "điển
văn". Người viết văn tế là cụ "tả văn". Trong những ngày viết văn tế,
người viết phải giữ mình chay tịnh, sạch sẽ. Ðúng một ngày trước hội,
một đoàn rước văn long trọng gồm các vị trong ban tế lễ, có phường bát
âm... đi kèm đến nhà người tả văn để rước văn về đình làng. Người viết
văn tế, đứng đón đoàn rước văn từ cổng, văn tế được đặt vào một chiếc
hộp gỗ sơn son trên kiệu bốn người khiêng để rước về đình làng. Tục rước
văn, ngoài thể hiện tấm lòng của người Lệ Mật với Thành hoàng, còn phần
nào thể hiện truyền thống trọng văn - trọng đạo của đất Thăng Long.
Những
phong tục cổ xưa vẫn được duy trì cho đến ngày nay. Ðược tham gia các
hoạt động đều là vinh dự của mỗi người, vì vậy, người trong làng ai cũng
cố gắng để có cơ hội được tham gia. Cái hay, cái đẹp của lễ hội Lệ Mật
không chỉ ở màn múa giảo long, mà còn ở những phong tục được duy trì và
tác dụng của nó trong đời sống cộng đồng, xứng đáng là đất nghìn năm văn
hiến.
Bài và ảnh: Giang Nam
Nguồn: Báo Nhân Dân