Các triều Lý, Trần, Hồ đã có sự phát triển rực rỡ về văn hóa. Đây là giai đoạn thịnh đạt của nền văn hóa Đại Việt. Như Lê Quý Đôn đã nhận định: “Nước Nam ở hai triều Lý, Trần nổi tiếng là văn minh”. Từ thời Lý, trang phục và trang sức của người Việt Nam đã có bản sắc riêng rõ nét, tiền đề lớn cho những phát triển sau này.
1. Về kiểu tóc nữ giới
– Kiểu 1: Búi tóc thành một bọc tròn trên đỉnh đầu, đây là
kiểu tóc đặc trưng của hình tượng chim thần Ca Lăng Tần Già (h.1,tr.20). Bản
thân hình tượng này cùng với việc đi kèm dày đặc chuỗi trang sức chứng tỏ rằng
đây là kiểu tóc của người nữ giới có thân phận cao quý. Đặng Ngũ Nương thời Trần
được miêu tả trong Thiệu Long tự bi với hình ảnh “xung xung phượng kế” (冲冲鳳紒)[1]
cho thấy búi tóc này được búi thẳng trên đỉnh đầu (h.2,3,4,5, tr.20). Riêng từ
“phượng kế”đề tài đặt ra 2 giả thuyết. Thứ nhất đó chỉ đơn thuần là mĩ từ chỉ
búi tóc như các từ “phượng thể”, “kim thân”, “long thể”…. Thứ hai, từ “phượng kế”cũng
có thể chỉ trang sức hình phượng gài trên búi tóc.
– Kiểu 2: Búi tóc trên
đỉnh đầu, uốn tóc thành hình rẻ quạt. Mặt sau của hiện vật đầu tượng bằng gốm
men thời Lý kí hiệu LSb11881/GM-2640 thể hiện rõ búi tóc này có khoảng trống ở
giữa (h.6,7,tr.20). So sánh tương quan với đầu tượng thì búi tóc này cao bằng
khoảng ½ đến 2/3 đầu, độ cao này đòi hỏi người phụ nữ phải bôi một lớp sáp làm
tăng độ cứng và giữ nếp của tóc. Trần Quang Đức trích Lĩnh ngoại đại đáp của
Chu Khứ Phi nhà Tống miêu tả người Việt thời Lý “lấy cao thơm chuốt tóc như
sơn”[2]. Lê Quý Đôn chép trong Vân Đài loại ngữ “Nay, tục nước nhà, người ta
hái hoa bưởi, theo cách cất rượu mà cất nước hoa. Lấy mấy giọt nước hoa ấy, bôi
vào đầu thì thấy thơm mát.”[3] Chính vì sự cầu kì này, đề tài cho rằng đây là
kiểu tóc của tầng lớp quý tộc. Song đến thời Trần, Trần Cương Trung lại cho rằng
trên tóc của phụ nữ An Nam “ không xoa dầu xoa sáp gì cả”, cùng với đó là lối “
cắt tóc để lại 3 tấc tết ở trên đỉnh đầu, buộc lấy đầu sợi tóc rồi bút chặt lại
và cài bằng trâm, ở đằng sau gáy không có tóc”[4]. Có lẽ để phù hợp với công cuộc
kháng chiến mà kiểu tóc nữ giới cũng trở nên giản tiện hơn thời kỳ trước.
– Kiểu 3: Tết tóc
thành một dải rồi quấn quanh đầu. Thể hiện trên hiện vật cho thấy để tạo kiểu
tóc này người phụ nữ cần có mái tóc rất dài và dày. Tuy nhiên, đây là kiểu tóc
đơn giản, nhanh gọn nên có thể phổ biến hơn hai kiểu trên (h.8,9,tr.20).
[1] Phạm Văn Ánh (2012), “Văn bia chùa Thiệu Long thời Trần”,
Nghiên cứu lịch sử số 10-2012, tr.48
[2] Trần Quang Đức (2013), Ngàn năm áo mũ, Nxb Thế giới, Hà
Nội, tr.94
[3] Lê Quý Đôn, Trần Văn Giáp dịch (2006), Vân Đài loại ngữ,
Nxb Văn hóa thông tin, Thanh Hóa, tr.409
[4] Lê Quý Đôn, Phạm Trọng Điểm dịch ( 2007), Kiến văn tiểu
lục, Nxb Khoa học xã hội, tr.77
Kiểu 4: Búi tóc thành hai bọc tròn hai bên đỉnh đầu
(h.1,2,3,4,tr.21). Sự thiếu vắng kiểu tóc này trong nền mỹ thuật truyền thống
khiến đề tài mạnh dạn nghi ngờ rằng đây là kiểu tóc của tầng lớp nô tỳ. Qua khảo
sát hệ thống tượng ở miền Bắc, chúng tôi nhận thấy chỉ có các tượng Phỗng mới
được tạo hình với hai búi tóc xoắn hai bên như một sự “hình thành bản sắc”mà
người chiến thắng gán cho kẻ thua cuộc với mục đích hạ thấp đối thủ
(h.7,tr.21). Kiểu tóc này có thể kết hợp với tóc mái rủ trước trán.
– Kiểu 5: Búi tóc trên
đỉnh đầu, búi tóc thấp, rẽ mái sang hai bên (h.5,6,tr.21).
2. Kiểu tóc của nam giới
– Kiểu 1: Búi thành
búi tròn cao trên đỉnh đầu. Trần Quang Đức gọi đây là kiểu búi chuy kế và cho rằng
kiểu búi tóc của người Việt thường ở phía sau đầu và thậm chí dời thấp xuống
gáy[1]. Tuy nhiên, qua khảo sát nguồn tư liệu khảo cổ học, đề tài nhận thấy rằng
búi tóc này có xu hướng lệch về phía trước trán (h.1, tr.22). Kiểu tóc này xuất
hiện với tần suất thường xuyên nhất. Đại Việt sử ký toàn thư chép vua Lý Huệ
Tông “dần dần phát điên, có khi tự xưng là Thiên tướng giáng, tay cầm giáo và mộc,
cắm cờ nhỏ vào búi tóc”[2]Có thể nhận định rằng đây là kiểu tóc phổ biến cả
trong cung đình, quân đội lẫn đời sống thường nhật. Một số hình vẽ còn thể hiện
việc người ta dùng khăn để bọc tóc (h.3,tr.22). Đại Việt sử kí toàn thư chép
“các quan đội mũ chữ đinh, thêm miếng lụa bọc tóc màu tía xen màu biếc”[3] .”Có
người chùm đầu bằng khăn lụa. Ngày thường ở nhà, chỉ để đầu trần, khi tiếp
khách hoặc ra đường mới đội khăn”[4]
– Kiểu 2: Búi thành
búi tròn cao trên đỉnh đầu nhưng khác kiểu 1 ở chỗ người nam giới không giấu
tóc thừa vào trong búi tóc mà để thừa ra chừng 10cm (h.5,tr.22).
– Kiểu 3: Buộc tóc
đuôi ngựa. Hình vẽ thể hiện lọn tóc này rủ đến tận gáy, dựa trên tương quan với
đầu người nam giới thực tế thì độ dài của tóc ước chừng 20-25cm (h.7,tr.22).
[1] Trần Quang Đức (2013),sdd, tr.95
[2] Đại Việt sử ký toàn thư (2013),sdd, tr.259
[3] Đại Việt sử ký toàn thư (2013),sdd, tr.336
[4] Đoàn Thị Tình (2006), Trang phục Việt Nam, Nxb Mỹ Thuật,
Hà Nội, tr.45
– Kiểu 4: Cắt tóc ngắn.
Kiểu tóc này phổ biến hơn vào thời Trần, trong cả giới quan lại, quý tộc, nên mới
có quy định các vương hầu “người tóc dài đội mũ Triều Thiên, người tóc ngắn đội
mũ Bao”[1] Người nữ giới cũng cắt tóc ngắn, đến thời thuộc Minh có quy định “cấm
con trai, con gái không được cắt tóc”[2], song do chưa khảo được hiện vật khảo
cổ nào thể hiện kiểu tóc ngắn của nữ giới nên đề tài còn bỏ ngỏ vấn đề này.
Trang trí trên thạp gốm hoa nâu (h.2, tr.23), đầu tượng thời Trần tại lăng vua
Trần Hiến Tông (h.1, tr.23) và hình vẽ trên Trúc lâm đại sỹ xuất sơn đồ
(h.3,tr.23) cũng thể hiện kiểu tóc ngắn của nam giới, tuy độ dài có chênh lệch
nhưng không nhiều.
– Kiểu 5: Cạo trọc đầu.
Kiểu tóc này đã được NNC Trần Quang Đức khảo về mặt thư tịch, tuy nhiên chúng
tôi vẫn chưa tìm được tư liệu khảo cổ học thể hiện nên xin tạm bỏ ngỏ.
[1] Đại Việt sử ký toàn thư (2013),sdd, tr.337
[2] Đại Việt sử ký toàn thư (2013),sdd, tr.471
3. Mũ Quyển Vân/ Thông Thiên
Dựa trên ghi chép trong An Nam chí lược, Quyển Vân là loại
mũ dành cho vua nhà Trần, tên gọi khác là mũ Thông Thiên. “Chính vì dáng mũ Thông
Thiên cao, chóp mũ uốn công ngã về phía sau, trông như áng mây cuộn lại nên được
gọi với cái tên hình tượng là mũ Quyển Vân”[1] (h2, tr.24).
Đề tài không khảo được dấu vết của mũ Quyển Vân trên hiện vật
khảo cổ thời Trần, song lại phát hiện một ấm hoa nâu thời Lý thể hiện hình tượng
chim thần Kinara đội loại mũ tương tự như mô tả về mũ Quyển Vân. Mũ màu đen, có
phần vành được trang trí bằng các hạt ngọc, chính giữa đính miếng trang sức
hình lá đề, chạy dọc thân mũ là các viền trang trí màu trắng(phỏng đoán là bạc
hoặc các hạt châu kết thành dải), hai bên thái dương có gắn miếng vải màu đen
song chưa rõ tên gọi, dây thao cùng màu và to bản, chóp mũ uốn cong về phía sau
(h1, tr.24). Cũng có một ấm men khác thể hiện dạng thức này nhưng không có dây
thao và chóp mũ cũng không uốn về phía sau.
Giả thiết niên đại thời Lý của hiện vật là chính xác thì mũ
Quyển Vân/Thông Thiên đã có từ thời Lý và được nhà Trần kế thừa.
[1] Trung Quốc phục sức đại từ điển, Trần Quang Đức dẫn
(2013),sdd, tr.106
4. Mũ Đinh Tự
Hình vẽ trên gốm hoa nâu thể hiện một dạng mũ hình ống màu sẫm,
quây quanh trán và rủ xuống phía sau, phía sau may thêm mảnh vải hình vuông che
kín gáy(h1, tr.25). Hình ảnh này phần nào khớp với miêu tả của sứ thần nhà
Nguyên Trần Cương Trung về quan lại nhà Trần: Hình vẽ trên gốm hoa nâu thể hiện
một dạng mũ hình ống màu sẫm, quây quanh trán và rủ xuống phía sau, phía sau
may thêm mảnh vải hình vuông che kín gáy(h1, tr.25). Hình ảnh này phần nào khớp
với miêu tả của sứ thần nhà Nguyên Trần Cương Trung về quan lại nhà Trần: “[…]
Khăn dùng màu xanh thẫm do tơ nhuộm chế ra, khi đội khăn thì dùng dây sắt cài lại,
đằng trước cao hai thước mà gập xuống đến cổ, lấy dải buộc thắt lại đằng sau,
trên đỉnh có cài cái đinh bằng sắt, người có quan chức thì thêm một mảnh dải
vào đinh sắt này”[1]. Trần Quang Đức lại cho rằng chữ Hạng (gáy) đã bị chép nhầm
thành chữ Đỉnh (chóp), phải là (chóp), phải là “ gáy mũ có móc sắt, người có
quan chức gia thêm mảnh vải vào móc”[2]. Điều này phù hợp với thể hiện trên các
hình vẽ trên gốm hoa nâu với phần vải được gắn vào gáy mũ che kín gáy và một phần
vai.
Toàn thư ghi nhận vào năm 1300, vua Trần Anh Tông Toàn thư
ghi nhận vào năm 1300, vua Trần Anh Tông “Mùa đông, tháng 10, quy định kiểu mũ
áo mới của quan văn võ. Quan văn thì đội mũ chữ đinh màu đen, tụng quan thì đội
mũ toàn hoa màu xanh vẫn như quy chế cũ”[3] chứng tỏ quy chế mũ đinh tự đã có từ
trước năm 1300. Đến năm sau lại ra thêm quy định chứng tỏ quy chế mũ đinh tự đã
có từ trước năm 1300. Đến năm sau lại ra thêm quy định “các quan văn võ đều đội
mũ chữ đinh”[4].
Một số hình ảnh thể hiện rằng người ta buộc thắt nút ở sát đỉnh
đầu, một số lại thể hiện việc người ta để cả tóc và khăn rủ xuống gáy (h1,
tr.25).
[1] Lê Quý Đôn, Phạm Trọng Điểm dịch ( 2007), sdd, tr. 76
[2] Trần Quang Đức, sdd, tr. 124
[3] Đại Việt sử ký toàn thư (2013),sdd, tr.336
[4] Đại Việt sử ký toàn thư (2013),sdd, tr.336
5. Trang sức tóc
Trang sức tóc gồm có các dải hoa quấn quanh trán, thông thường
một dải có 5 đến 6 bông hoa giống nhau về tạo hình. Cắm vào búi tóc có loại
trang sức hình bán nguyệt chạm hoa lá theo trục đối xứng . Như đã nói ở phần 1.
Kiểu tóc của nữ giới, từ “phượng kế”có thể chỉ loại trang sức hình phượng gắn
trên búi tóc, song loại trang sức này hiện chưa khảo được. Hai bên thái dương kết
bằng dải lụa, buông thõng xuống vai và bắp tay (h1,5, tr.26).
Dấu vết hiện còn trên những đầu tượng bằng gốm men còn cho
thấy dạng trang sức tóc hình bán nguyệt trên đỉnh đầu tuy không khảo được chất
liệu (h3, tr.21). Phía sau búi tóc cũng có dạng trang sức tương tự, hai đầu giấu
trong búi tóc, có loại rủ xuống tận gáy, có loại chỉ ở lưng chừng thì còn được
gia thêm 2 dải rủ xuống (h1,tr.21). Một loại khác lại gồm một dải lụa cuốn
quanh đầu, hai bên thái dương có 2 dải rủ xuống nhưng không dài tới tận bắp tay
như kiểu đã trình bày ở phần trên mà chỉ ngắn đến cổ (h5, tr.21).
Một dạng trang sức khác của nữ giới có hình dáng tương tự mũ
Phù Dung[1] được dùng để bọc búi tóc. Trang sức này gồm 4 cánh như cánh sen úp
vào trong, nhìn tổng thể trông như một búp sen thanh thoát (h3, tr.26).
Có loại mũ hình dáng tương tự như mũ Ngũ Phật, Thất Phật
ngày nay song không trang trí bằng hình ảnh các vị Phật mà bằng các cánh hoa
(h2, tr.26).
[1] Trần Quang Đức (2013), sdd, tr.107
6. Trang sức thân thể
Thiệu Long tự bi miêu tả trang sức của Đặng ngũ nương như
sau: “Phụng kim xuyến nhi phó lục già, quang phi diệc dĩ; sức hương anh nhi huyền
lưỡng chấn, mạt lị hà tai” (奉金釧而副六珈光妃亦已,飭香瑛而懸两瑱 末利何哉)(奉金釧而副六珈光妃亦已,飭香瑛而懸两瑱 末利何哉)[1].
Có bốn loại trang sức xuất hiện trong câu trên là “kim xuyến-奉金”- vòng vàng, có thể là vòng cổ
hoặc vòng tay, “phó lục già-副六珈”-
lấy ý từ câu “quân tử giai lão, phó kê lục già君子偕老副笄六珈”là
sáu thứ trang sức ở trên đầu có thể là trâm hoặc dải anh lạc như ở phần 2.3.1, “hương
anh飭香”- ngọc thơm và “chấn瑱”- khuyên tai. Trên thực tế,
khó có thể tìm thấy khuyên tai trên các đầu tượng nữ giới, song lại thấy xuất
hiện phổ biến ở các tượng Garuda và hiếm hoi ở một bức phù điêu vũ công trên bệ
đá chùa Hoa Long. Như vậy, vào thời Lý- Trần, người phụ nữ tôn quý thường búi
tóc cao trên đỉnh đầu, gài trâm hình phượng, tai đeo khuyên ngọc, người đeo ngọc
thơm.
[1] Phạm Văn Ánh (2012), “Văn bia chùa Thiệu Long thời Trần”,
Nghiên cứu lịch sử số 10-2012, tr.48
7. Áo giao lĩnh
Giao lĩnh là tên gọi của loại áo vạt chéo, dân gian thường gọi
là áo tràng vạt. Toàn thư chép vua Trần Anh Tông mặc áo giao lĩnh: “Đế phục
hoàng la giao lĩnh y 帝服黄羅 交領衣”,
bản dịch của Nxb KHXH năm 1971-1972 dịch là “帝服黄羅 交領衣”,
bản dịch của Nxb KHXH năm 1971-1972 dịch là “áo tràng vạt”[1]. Có thể coi đây
là trang phục thông dụng và có lịch sử dài nhất trong hệ thống trang phục Việt
Nam. Bức tượng đầu tiên thể hiện trang phục giao lĩnh là tượng Phật A di đà
chùa Phật Tích có niên đại năm 1057. Tượng Phật mặc 2 lớp giao lĩnh chồng lên
nhau, độ cong võng của vạt áo lớn, để lộ gần hết khuôn ngực (h2, tr.27). Vạt
giao lĩnh có độ võng lớn là một trong những đặc trưng của giao lĩnh Việt, hình
thành từ sự thích nghi với khí hậu nóng ẩm. Tay áo rộng khoảng 50-60cm. Đến thời
Trần có quy định về độ rộng tay áo của các quan văn, võ từ 9 tấc đến 1 thước 2
tấc(khoảng 30-40cm)[2]. Tượng Phật A di đà di chùa Ngô Xá cũng thể hiện lối
trang phục tương tự (h3, tr.27).
[1] Đại Việt sử ký toàn thư (2013), sdd, tr.349
[2] Đoàn Thị Tình (2006), sdd, tr.35
8. . Áo viên lĩnh
Dạng áo cổ tròn may từ 5-6 thân vải, hình dáng giống như áo
Bối Tử thời Tống. Hình vẽ trên gốm hoa nâu thể hiện một người nam giới mặc áo
viên lĩnh dài quá đầu gối, không thắt đai, tay áo rộng, vạt dưới xòe ra, bên dưới
mặc quần, không quây thường (h1, tr.30). Lê Tắc miêu tả “Vương hầu và thứ dân
thường mặc áo cổ tròn, mặc thường màu đen, quần bằng là trắng, chuộng loại hài
bằng da”[1].
Trần Cương Trung trong Nguyên thi kỷ sự – An Nam tức sự
chép: “ Người trong nước đều mặc lụa thâm, áo hoa, quần mỏng, cổ áo tròn khâu bằng
là, đàn bà cũng mặc áo thâm, nhưng màu trắng ở trong rộng hơn để viền vào cổ
áo, rộng bốn tấc, họ cho thế là là khác với áo đàn ông”[2]
Bức vẽ bên cạnh lại thể hiện trang phục viên lĩnh chỉ dài
hơn thắt lưng một chút, thắt đai, dưới mặc quần đùi ngắn tới đầu gối. Có lẽ do
đang phải lao động (gánh nước) nên người ta thắt đai cho gọn gàng chăng?
Tượng người bằng gốm men nâu thời Lý, trưng bày tại Bảo tang
LSQGVN thể hiện kiểu trang phục gồm áo giao lĩnh lót trong, áo viên lĩnh mặc
bên ngoài, tay áo dài sát đất, dưới thắt tế tất, quay thường, đi giày mũi
sen.(h2, tr.30)
Tượng quan hầu ở lăng vua Trần Hiến Tông tuy đã bị vỡ phần cổ
nên không còn dấu vết của kết cấu cổ áo, song vẫn có thể phỏng đoán loại trang
phục này là áo cổ tròn(phần cổ đứng là dấu vết mới tạo gần đây khi trùng tu).
Quan hầu tóc ngắn, đội mũ Bao, mặc viên lĩnh trường bào dài sát đất, thắt đai
có dây thao, trùm tế tất, bên ngoài khoác đối khâm (h3, tr.30).
Kết hợp với thông tin ghi chép trong thư tịch, có thể thấy
viên lĩnh là trang phục dùng cho cả triều đình và dân gian. Viên lĩnh thường xẻ
bốn vạt, dài quá đầu gối, tay áo rộng . Những khi phải luyện tập, lao động, người
ta mặc viên lĩnh dài quá thắt lưng, tay hẹp hoặc không tay, thắt đai, mặc quần
đùi hoặc quần dài quấn xà cạp.
[1] An Nam Chí Lược, Trần Quang Đức dịch (2013), sdd, tr.151
[2] Lê Quý Đôn, Phạm Trọng Điểm dịch ( 2007), sdd, tr. 76
9. Giày
Người Việt có thói quen đi chân đất, thậm chí trong lúc thiết
triều, nhưng trong nhiều trường hợp họ vẫn đi giày da. Theo Đại Việt sử kí toàn
thư, vua Lý Thánh Tông định triều phục cho các quan vào chầu vua phải đi tất,
đi hia và đội mũ phốc đầu[1]. Thông tin về loại hia này đến nay chưa khảo được.
Tranh Trúc Lâm đại sỹ xuất sơn đồ thể hiện vua và quan lại
nhà Trần đi một loại giày được may từ 4 mảnh vải hoặc da ghép lại, mũi giày hơi
vếch, sáng màu (h3, tr.32). Sách An Nam kỷ lược cảo thế kỉ XVII miêu tả giày của
người Việt được làm từ bông vải hoặc lụa, đế bằng da, mũi giày cong như mũi
thuyền, màu đen hoặc sáng màu thêu hoa[2](h7, tr.32).
Giày của vũ công, vũ nữ là loại mũi cong và nhọn hơn hẳn loại
giày của vua, quan.( h4,5, tr.32 Chưa có tư liệu ghi chép về chất liệu và màu sắc
của loại giày này.
[1] Đại Việt sử ký toàn thư (2013), sdd, tr.195
[2] Đoàn Lê Giang (2015), “ Hình ảnh Việt Nam 200 năm trước
qua sách Nhật Bản”, Xưa&Nay số 455- 2015, tr.125
Giày dép thời lý trần
10. Mũ Đầu hổ
Hiện loại mũ này chỉ được thể hiện trên một hiện vật hiếm
hoi là tượng người trên đầu ngói bò thời Trần. Phần chóp mũ được điêu khắc hình
đầu hổ với khuôn mặt dữ tợn, giáp đã được xử lí thành hình vảy cá, che kín tai
và gáy (h1, tr.33). Đây có thể là mũ của tướng lĩnh hoặc của đội quân Hổ Bôn, Hổ
Dực thời Trần. Trần Quang Đức dẫn Trung Quốc y quan phục sức đại từ điển: “Mũ đầu
hổ được gọi là Hổ quan, làm bằng sắt, xuất hiện từ thời Tùy Đường- Ngũ Đại, từ
thời Tống trở về sau không thấy nữa”[1].
[1] Trần Quang Đức (2013), sdd, tr.134
Mũ đầu hổ
11. Mũ Đâu Mâu
Mũ đầu mâu lý trần
Đâu mâu là tên gọi khác của mụ Trụ. Toàn thư ghi nhận sự tồn
tại của tên gọi này vào năm 1002 khi vua Lê Đại Hành “xuống chiếu làm mấy nghìn
mũ đâu mâu, ban cho sáu quân”[1]. Tham khảo các tượng Thần tướng/Kim cương còn
sót lại, chúng tôi nhận thấy hình dáng mụ trụ khá nhất quán. Mũ hình bán cầu,
trên chóp có phần lồi lên có lẽ là để chụp búi tóc, viền mũ chạm nổi những bông
hoa, phía sau gắn miếng vải/da che gáy.(h3, tr.33)
[1] Đại Việt sử ký toàn thư (2013), sdd, tr.148
12. Minh Quang giáp
Minh Quang là tên loại giáp phục được đặc trưng bởi tấm hộ
tâm hình tròn trước ngực và miếng trang trí hình đầu hổ gắn hai bên vai. Các
pho tượng Thần tướng/Kim cương còn lại đều thể hiện loại quân phục này một cách
nhất quán (h4, tr.33).
Theo Họa thuyết Trung Quốc lịch đại giáp trụ: “Minh Quang là
tên gọi của loại giáp phục cổ đại xuất hiện từ thời Nam Bắc Triều dùng cho sĩ
quan và được lưu truyền đến đầu thời Đường”[1]
Minh quang giáp thời lý
Sở dĩ gọi là giáp Minh Quang bởi tấm hộ tâm hình tròn trước
ngực làm bằng sắt phản chiếu ánh sáng. Kết cấu bộ giáp gồm có áo choàng mặc
phía trong khôi giáp, dài đến đầu gối, cổ áo hình tròn, lót bông để giữ ấm vào
mùa đông[2].
Thư tịch không ghi chép gì về tên gọi của loại giáp này,
song ghi nhận nhiều lần các vị hoàng đế Đại Việt chủ động “xin” những bộ giáp
phục của nhà Tống. Năm 1009, vua Lê Long Đĩnh “Thư tịch không ghi chép gì về
tên gọi của loại giáp này, song ghi nhận nhiều lần các vị hoàng đế Đại Việt chủ
động “xin” những bộ giáp phục của nhà Tống. Năm 1009, vua Lê Long Đĩnh “lại xin
áo giáp mũ trụ trang sức bằng vàng. Vua Tống bằng lòng cho”[3]
Khảo cứu các pho tượng Kim Cương thời Lý, đề tài nhận thấy
tuy chịu ảnh hưởng lớn từ kết cấu của giáp Minh Quang nhưng thể hiện trang phục
trên các pho tượng này dày đặc các dải hoa và lụa trang trí, có lẽ đây chỉ là
giáp phục mặc trong các dịp lễ chứ không thực sự là giáp phục mặc trên chiến trận(h1-2,
tr.34). Do các tượng đều được gắn mới bằng xi măng nên không có cơ sở phỏng
đoán liệu giáp phục của Đại Việt có tấm bảo vệ cổ như Minh Quang giáp của Trung
Hoa hay không.
[1]陈大威(2009), 画说中国历代甲胄,上海书店出版社,tr.95
[2]陈大威(2009), 画说中国历代甲胄,上海书店出版社,tr.95
[3] Đại Việt sử ký toàn thư (2013), sdd, tr.153
Minh quang giáp thời nhà lý trần
40. Phỏng dựng Minh Quang giáp dựa trên tượng Kim Cương thời
Lý. Nguồn: Tác giả
Phỏng dựng minh quang giáp nhà lý
12. Trang phục biểu diễn
Trang phục biểu diễn thời kỳ này mang đậm màu sắc Phật giáo
và chịu ảnh hưởng của nghệ thuật thời Đường, biểu hiện rõ nhất là kiểu mình trần,
quàng khăn vạt chéo, mặc váy gấm thịnh hành trong các bức bích họa thời Đường.
Phù điêu dàn vũ công trên thành bậc tháp Chương Sơn thể hiện
đoàn vũ nữ gồm các cô gái trẻ, xiêm áo mềm mại. Động tác của họ nhất quán: hai
tay giơ ngang vai, gập khuỷu tay, chân trước hơi gập, chân sau duỗi thẳng. Vũ nữ
búi tóc cao trên đỉnh đầu, mình đeo trang sức, quàng khăn vạt chéo, mặc váy gấm,
đi giày mũi sen, mình quàng phi bạch. Motif này gần tương đồng với phù điêu vũ
nữ trên mảnh tháp được tìm thấy ở Quần Ngựa, Hà Nội. Nguyễn Du Chi dẫn lời Tống
Trung Tín cho rằng “ Đây là vũ điệu Tribhanga, loại điệu múa dành cho Bồ tát và
các tiên nữ, vừa thể hiện được sức mạnh và sự ngưỡng vọng chân lý, vừa thể hiện
được sự gần gũi trần thế”[1]. Song đây cũng có thể là điệu Đạp ca vũ, một vũ điệu
dân gian đơn giản được lan truyền từ thời Hán, rất thịnh hành ở thời Đường, từng
tốp tay cầm tay, chân giậm đất, theo nhịp trống vừa hát vừa múa[2]
ĐVSKTT ghi nhận Tĩnh Quốc Đại Vương Trần Quốc Khang múa điệu
người Hồ, được Thượng hoàng ban áo. “Hồ vũ- theo các nhà nghiên cứu lịch sử âm
nhạc Trung Quốc- là lối múa của dân tộc vùng Tây Vực được truyền nhập vào Trung
Quốc rồi truyền sang nước ta vào thời Đường. Hồ vũ là vũ đạo dân gian Tây Vực
bao gồm vũ đạo của các dân tộc thiểu số Tân Cương, vũ đạo dân gian Uzerbec và Ấn
Độ. Phong cách của Hồ vũ phóng khoáng sảng khoái vui vẻ, rất thích hợp với
phong thái ung dung đại lượng và tinh thần văn hóa thời Đường”[3] Sự ảnh hưởng
về vũ điệu này là cơ sở để phỏng đoán rằng trang phục của vũ công cũng theo lối
Hồ vũ, mà cụ thể là điệu Giá chi vũ.
Phù điêu trên bệ đá chùa Hoa Long thời Trần thể hiện hai vũ
công đầu đội mũ có vành uốn cong, cổ đeo trang sức, mình trần thắt dải lụa, dưới
mặc váy xếp nếp, chân đi giày thêu. Lối ăn mặc này khác hẳn với những vũ công
thời Lý. Vũ công này đang múa điệu Giá chi vũ. “ Giá chi vũ cũng là một điệu Hồ
vũ được triều đình cho biểu diễn trong dịp tiếp đãi sứ thần. Điệu múa này- theo
các nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc Trung Quốc- vào thời Đường được lưu truyền rộng
rãi trong giáo phường, quân doanh và trong nhà các sĩ đại phu. Người biểu diễn
mặc áo lụa dài tay chẽn, lưng thắt dải lụa điều, chân đi hài thêu, đầu đội mũ uốn
vành, đeo lục lạc, tư thế vừa mềm mại vừa mạnh mẽ, giàu sắc thái Trung Á”[4]
Bài thơ “ Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính” của Trần Nhân Tông có câu “ Giá chi
vũ bãi, thí xuân sam”[5] cho thấy nhà Trần khi tiếp sứ giả thường cho múa điệu
Giá chi vũ.
[1] Nguyễn Du Chi (2003), Hoa văn Việt Nam từ thời tiền sử đến
nửa đầu thời kỳ phong kiến, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội, tr.159; Tống Trung Tín
(1997), Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý và thời Trần ( thế kỷ XI-XIV),
Nxb Khoa học xã hội, tr. 61, 71.
[2] Bộ VHTT&DL(2010), 1000 năm âm nhạc Thăng Long-Hà Nội
quyển 1: Tài liệu Hán Nôm nhạc vũ cung đình- ca trù, Nxb Âm nhạc, Hà Nội, tr.
44
[3] Bộ VHTT&DL(2010), sdd, tr. 49
[4] Bộ VHTT&DL (2010), sdd, tr. 50
[5] Ủy ban KHXHVN, Viện văn học (1988), Thơ văn Lý- Trần,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 457