Đền Hát Môn, còn gọi là đền Quốc tế, đền Hai Bà Trưng, thuộc xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. Theo sử liệu ghi lại, vùng Hát Môn là nơi hai chúa Bà tổ chức hội thề cùng tướng sĩ sau khi dấy cờ khởi nghĩa tại thành Phong Châu. Đây cũng là nơi tuẫn tiết của nhị vua Hai Bà Trưng khi cuộc khởi nghĩa thất bại.
Tương truyền, đền Hát Môn được khởi dựng sau khi nhị vua Hai
Bà Trưng hoá sinh vào cõi bất diệt. Đền quay hướng Tây Nam gồm các công trình
kiến trúc chính: quán Tiên, miếu Tạm ngự, nghi môn, nhà phương đình, đàn Thề,
tam quan, tiền tế, trung đường, hậu cung, tả hữu mạc, gò Giấu ấn, nhà tưởng niệm
bà Nguyễn Thị Định, nhà khách, khu phụ trợ.
Quán Tiên: là một kiến trúc nhỏ, xây bằng gạch, cửa mở về hướng
đền kiểu vòm cuốn, có mái đao cong, nền cao hơn mặt đường 45cm, tạo ba bậc lên
nền quán. Theo cuốn thần tích của làng chép lại, thì nơi đây vốn là quán hàng
bán bánh trôi nước. Khi nghĩa quân của Hai Bà Trưng hội tại đàn Thề, bà hàng
bánh trôi đã dâng cả gánh bánh để Hai Bà ăn trước khi ra trận dẹp giặc. Ngôi
quán nhỏ này được dân làng dựng lên để tưởng nhớ công ơn đối với bà hàng bánh
trôi.
Miếu Tạm ngự: nằm phía trước bên phải đền chính, có mặt bằng
dạng chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung. Nhà tiền tế ba gian, kiểu tường hồi bít
đốc, mái lợp ngói mũi, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh. Các bộ vì kết cấu kiểu vì “giá
chiêng, hạ kẻ bẩy hiên”. Toà hậu cung ba gian, xây nối liền với tiền tế, hệ vì
đỡ mái có kết cấu tương tự nhà tiền tế. Phía trước mở hệ thống cửa kiểu bức
bàn. Công trình kiến trúc này là nơi tạm ngự của Thánh Bà. Khi mùa nước lũ hàng
năm, khu đền chính bị ngập, dân làng rước tượng, ngai thờ và toàn bộ đồ thờ tự
của đền về đền Tạm ngự, hết mùa nước lũ lại rước Thánh hoàn cung.
Nghi môn ngoại: có niên đại khởi dựng vào thời Nguyễn, được
làm theo kiểu tứ trụ xây gạch, đỉnh trụ đắp nổi hình tứ phượng, lân. Phần lồng
đèn đắp nổi hình tứ linh (long, ly, quy, phượng). Thân trụ có câu đối chữ Hán.
Từ nghi môn theo triền đê xuống là khu đền chính, bên phải có hồ nước, giữa hồ
có nhà thủy đình (phương đình) mới xây dựng gần đây. Bên trái đường trên mặt đê
là nhà tưởng niệm nữ tướng - nữ anh hùng
Nguyễn Thị Định.
Đàn Thề: được xây dựng mới ở phía trước cổng tam quan, cột
đá thề được tạo kiểu trụ hình tháp, bốn mặt có khắc chữ Hán, đặt trên nền cao
hơn mặt sân 65cm, trổ năm bậc lên, mặt hướng vào đền khắc nội dung lời thề của
Hai Bà Trưng. Bao quanh đàn thề là tường bao lửng, phía ngoài đặt các tượng voi
và ngựa bằng đá.
Nghi môn: gồm ba gian kiểu chồng diêm, hai tầng mái. Ba cửa
vào đền làm kiểu ván bưng. Các bộ vì đỡ mái được kết cấu theo dạng “giá chiêng,
hạ kẻ, bẩy hiên”, mái lợp ngói mũi, nền lát gạch Bát.
Nhà bia: hai nhà bia được xây ở vị trí phía ngoài dãy nhà tả/
hữu mạc, trên nền cao hơn mặt sân 30cm, kiểu phương đình, mái lợp ngói ta, bốn
đầu đao tạo cong vút.
Tả/ hữu mạc: mỗi dãy năm gian chạy dọc theo sân đền, kiểu tường
hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, các bộ vì đỡ mái kết cấu dạng “giá chiêng, hạ kẻ”,
được đặt lên tường bổ trụ trốn một hàng cột.
Nhà đại bái: gồm năm gian, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc,
các bộ vì đỡ mái kết cấu kiểu “thượng giá chiêng, chồng rường, cốn mê, bẩy
hiên”, hoành mái phân “thượng tam - hạ tứ”, mái lợp ngói ri, nền lát gạch Bát.
Trang trí trên kiến trúc tập trung dày đặc ở đầu dư, cốn, xà nách, bẩy, ván gió
dưới dạng chạm nổi, chạm lộng …, với các đề tài rồng, tứ linh. Đây là sản phẩm
nghệ thuật từ thời Lê Trung hưng đến thời Nguyễn. Gian giữa treo hoành phi, các
cột cái đều treo câu đối ca ngợi công đức Hai Bà.
Tiền tế: gồm năm gian, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, nền
nhà cao hơn mặt sân 30 cm, xung quanh bó gạch vỉa, các bộ vì kết cấu“thượng rường
giá chiêng, hạ bẩy hiên”.
Hậu cung: gồm ba gian, xây trên nền cao hơn mặt sân, kiểu tường
hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi. Phần mái của tòa này được nối với tòa trung đường
qua phần mái của nhà cầu. Bộ khung gỗ đỡ mái gồm bốn bộ vì kèo dạng “chồng rường”.
Trang trí trên kiến trúc này chủ yếu là phượng. Gian giữa cung cấm được tạo một
khám gỗ bưng kín bằng các ván gỗ, là nơi thờ Hai Bà.
Nhà khách: gồm năm gian, kiểu tường hồi bít đốc. Các bộ vì đỡ
mái tạo kiểu “thượng giá chiêng, hạ kẻ, bẩy hiên” cột trốn.
Gò Giấu Ấn: ở phía sau hậu cung đền. Tương truyền, đây là dấu
tích nơi Hai Bà Trưng cất giấu ấn tín trước lúc rút quân hoá thân về cõi vĩnh hằng
ở cửa sông Hát. Hiện nay, gò Giấu Ấn được bó vỉa, xây tường gạch bao quanh.
Đền Hát Môn còn bảo lưu được nhiều di vật, cổ vật có giá trị
về văn hoá, lịch sử, gồm: 293 di vật, cổ vật với nhiều chủng loại và phong phú
chất liệu, như: gỗ, đá, đồng, sứ, giấy, kim loại... có niên đại trải dài từ thời
Lê, Tây Sơn, Nguyễn đến nay.
Hội đền Hát Môn được tổ chức hằng năm vào ngày 6 tháng 3 (Âm
lịch), với các nghi lễ và trò diễn dân gian thu hút đông đảo nhân dân địa
phương và khách thập phương. Đặc biệt, tục làm bánh trôi và lễ rước bánh trôi
dâng Hai Bà đã trở thành một sinh hoạt văn hóa độc đáo của vùng đất này.
Nghệ thuật điêu khắc, phong cách trang trí chủ yếu được thể
hiện qua các di vật hiện còn lưu giữ tại đền: Tượng Hai Bà sơn son thếp vàng
trong tư thế thiết triều, đầu đội mũ thiết trụ, mặc áo long bào, nét mặt trang
nghiêm, đôi mắt hiền từ... Bức hoành phi khắc 4 chữ “Lạc Hùng chính thống” (biểu
dương sự nghiệp của Hai Bà đã nối lại nền chính thống của các vua Hùng ngày trước).
Tổng mặt bằng Quần thể Đền Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội
Ghi chú, từ ngoài vào trong: 1) Quán Tiên và Nghi môn ngoại ; 2) Nhà
tưởng niệm bà Nguyễn Thị Định; 3) Miếu Tạm ngự; 4) Thủy đình; 5) Đàn
thề; 6) Nghi môn; 7) Nhà Tả, Hữu mạc và 2 Nhà bia; 8) Nhà Đại bái; 9)
Nhà Tiền tế; 10) Nhà Hậu cung; 11) Nhà khách
Quán Tiên
Nghi môn ngoại, bên phải ảnh là Quán Tiên
Tòa thủy đình
Đàn thề
Voi, ngựa đá quanh đàn thề
Nghi môn nội
Nhà bia
Nhà Hữu vu
Tòa Đại bái
Ban thờ công đồng tòa Đại bái
Tượng thờ Nhị vua Hai Bà Trưng trong Hậu cung
Chạm khắc hổ phù trên ban thờ
Gò giấu ấn
Đôi câu đối ca ngợi công đức của Hai Bà. Hai bộ kiệu bát cống
mang phong cách nghệ thuật điêu khắc gỗ vùng xứ Đoài thế kỷ XVII. Ba hương án,
trang trí đề tài tứ linh, hổ phù, hoa chanh. 22 đạo sắc phong, đôi sấu đá và rất
nhiều đồ thờ tự có giá trị khác. Đặc biệt, tất cả các đồ thờ tự trong đền như
hoành phi, câu đối, hương án, long kiệu... đều sơn màu đen.
Hàng năm, đền có 3 ngày lễ chính tính theo âm lịch: Ngày 6
tháng 3, ngày hoá của Hai Bà, ngày 4 tháng 9 ngày tế cờ khao quân, ngày 24
tháng 12 lễ rước mộc dục. Đặc biệt, tục làm bánh trôi và lễ rước bánh trôi dâng
Hai Bà đã trở thành một sinh hoạt văn hóa độc đáo của vùng đất này.
Đền Hát Môn đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích
lịch sử, kiến trúc nghệ thuật năm 1964.
Với những giá trị đặc
biệt, di tích Đền Hát Môn (huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội) đã được Thủ tướng
Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số
2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013).
Đặng Tú, Bộ môn KTCN/Đại học Xây dựng
Nguồn: Bộ môn KTCN/Đại học Xây dựng