Khảo cứu về trang phục thời kỳ Hùng Vương Khảo cứu về trang phục thời kỳ Hùng Vương Dân tộc Việt có một quá khứ đáng tự hào và trân trọng, các vị vua Hùng chính là “linh hồn” kiến tạo nên giai đoạn lịch sử quan trọng đó. DẪN NHẬP Thời kỳ do các vua Hùng làm chủ từng được xem như một giai đoạn huyền sử không có thật, nhưng những khám phá khảo cổ đã chứng tỏ sự tồn tại của một nhà nước trong thời kỳ cội nguồn của dân tộc Việt, được kế thừa truyền thống từ các văn hóa cổ xưa tại vùng Động Đình, Dương Tử trong huyền sử được truyền lại từ ngàn xưa. Họ phát triển mạnh mẽ trình độ văn minh của mình liên tục trong nhiều nghìn năm, thể hiện trên cả hai khía cạnh tinh thần và vật chất, với biểu hiện di vật từ thời kỳ đồ đá, đồ ngọc cho tới đồ đồng, cùng những di sản tinh thần hiện đã phai mờ hoặc biến mất. Sự phát triển đó đi cùng với trình độ văn minh, đi cùng với trang phục, thế nhưng hình ảnh “trang phục” của thời đại này lại được các nhà nghiên cứu khắc họa một cách kỳ lạ và khó hiểu: Trang phục được phục dựng lại một cách bất hợp lý như thế, đã tạo nên những hiểu lầm không nhỏ trong suy nghĩ của người Việt về thời đại các vua Hùng của dân tộc mình, cho rằng thời kỳ đó người Việt đang còn trong trạng thái sơ khai, lạc hậu, bởi đây là dạng trang phục của một dân tộc chậm tiến, kém văn minh, chứ không phải của một dân tộc đã tạo ra những chiếc trống đồng với những ý niệm sâu xa, phi thường, cũng như có một tiến trình phát triển văn minh lâu dài trong nhiều ngàn năm. Chiếc trống đồng Sông Đà đồ sộ và tinh xảo này phải chăng là do những người kém văn minh, không biết may trang phục kia tạo nên? Sự bất hợp lý trong phục dựng trang phục thời kỳ Hùng Vương còn thể hiện rõ hơn, khi chính những phát hiện khảo cổ đã chứng tỏ người Việt biết dệt vải ngay từ thời kỳ văn hóa Hà Mẫu Độ cho tới Lương Chử (cách ngày nay từ 7000 tới 5000 năm), kế thừa vào thời văn hóa Phùng Nguyên (cách ngày nay hơn 4000 năm), tới thời Đông Sơn thì đã có khuy áo, có khóa thắt lưng, chứng tỏ lịch sử lâu dài và sự phát triển tới độ phức tạp và cầu kỳ của trang phục Việt. Vậy nên, trang phục “cởi trần, đóng khố, đeo lá cây” là một hình ảnh bất hợp lý, thiếu chính xác và cũng không khách quan với những thực tế khảo cổ học. Việc phục dựng lại trang phục thời kỳ Hùng Vương là rất quan trọng, có thể tác động tới nhận thức của mọi người về thời kỳ này. Đó là điều chúng tôi cho rằng cần thiết phải làm được, mặc dù sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn, do sự thiếu thốn tư liệu. Nhưng có một điều rất may mắn với chúng ta: còn nhiều dân tộc ở miền Đông Á và Đông Nam Á ngày nay giữ gìn được những nét văn hóa của cộng đồng Việt cổ xưa, trong đó có trang phục, và tư liệu hình ảnh từ các cổ vật văn hóa Đông Sơn, tư liệu cổ sử và văn hóa, cũng như cổ vật Điền Việt là những tư liệu đặc biệt quan trọng để chúng ta tìm lại trang phục cổ của dân tộc mình. Qua những cơ sở đó, chúng tôi sẽ tiến hành phục dựng lại trang phục thời kỳ Hùng Vương, với hướng đi lấy cổ vật Việt thời Đông Sơn làm cốt lõi, so sánh, đối chiếu, chọn lọc qua cổ vật văn hóa Điền Việt, đối chiếu, so sánh với các dân tộc còn lưu giữ những nét văn hóa Việt cổ với sự cẩn trọng cần thiết để có thể tìm lại những dạng trang phục cơ bản nhất của thời kỳ này. Chúng tôi hy vọng rằng công trình này của mình có thể làm cơ sở cho việc phục dựng trang phục Việt cổ thời Hùng Vương sau này, từ đó góp phần thay đổi nhận thức của mọi người về cội nguồn của dân tộc, để có thể thấy được quá khứ đáng tự hào mà Tổ Tiên người Việt đã từng xây dựng nên. Bài khảo cứu sẽ được chúng tôi chia thành bốn phần, phần đầu tiên là tiền đề chứng minh có sự tồn tại của trang phục, phần tiếp theo, chúng tôi sẽ tìm kiếm, phục dựng tương đối các loại trang phục thời Hùng Vương, cũng như tìm lại các dạng mũ miện, trang sức, phụ kiện và các hoa văn sử dụng trong trang trí trang phục. Nếu có bất kỳ điểm nào mà bạn đọc thấy chưa thỏa đáng ở bài viết, xin hãy tự nhiên chia sẻ quan điểm của mình ở phần bình luận, để chúng tôi có thể hoàn thiện hơn bài khảo cứu của mình. Lang Linh PHẦN I CƠ SỞ CHO VẤN ĐỀ TRANG PHỤC THỜI HÙNG VƯƠNG I. Tiền đề: Sử Ký, Tư Mã Thiên có ghi: “Phu (Triệu Đà) cắt tóc xâm mình, mặc áo quấn thân áo sang trái, giống như dân (Âu) Việt vậy”. (Sử ký Tư Mã Thiên, Nam Việt Uý Đà Liệt Truyện, bản dịch của Nhữ Thành) Sử liệu này là tiền đề cơ bản về trang phục của người Việt xưa, với 2 cụm từ quan trọng được nhắc tới về trang phục của tộc Việt: “mặc áo”, “quấn thân áo sang trái”. Như vậy thông qua sử liệu, chúng ta được biết người Việt có trang phục là áo quấn thân áo sang trái (tả nhậm), đối lập với phong cách trang phục của người Hán (hữu nhậm). Sử liệu này cũng phủ nhận đoạn sử cũng được ghi lại trong Sử Ký của Tư Mã Thiên: “…Ở phía Đông đất Mân Việt chỉ vẻn vẹn nghìn người, cũng xưng hiệu là “vương”; ở phía Tây, nước Âu Lạc là nước trần truồng, cũng xưng là “vương”….” II. Những vấn đề logic khi tìm hiểu về trang phục thời kỳ Hùng Vương: 1. Vào thời kỳ Đông Sơn hơn 2200 năm trước, thì nhiệt độ trung bình của trái đất thấp hơn ngày nay khá nhiều (hình dưới), miền Bắc nước ta trong thời kỳ đó lại nằm trong vùng có mùa đông rất lạnh, có thể còn có băng tuyết (đến thời Lý, thời tiết vẫn còn lạnh hơn ngày nay và có hiện tượng băng tuyết ghi lại trong sử sách [1]), thêm nữa, do khí hậu có độ ẩm cao nên mùa đông ở miền Bắc Việt Nam thường lạnh giá hơn so với nhiệt độ thực tế. Với khí hậu như vậy, thì trang phục đóng khố, cởi trần chắc chắn sẽ không thể chống chịu được thời tiết khắc nghiệt trong mùa đông. Khí hậu của miền Bắc Việt Nam cũng có mùa nóng, trang phục có thể đơn giản hơn trong mùa này, người Việt cũng đã sáng tạo ra nhiều chất liệu có tính thoáng mát như vải lanh, vải tơ chuối… để phù hợp cho tiết trời nóng bức. Chiếc khố chỉ được sử dụng trong đời sống lao động, có thể thấy trong các hình ảnh tư liệu thời Pháp thuộc, thì nông dân, ngư dân Việt vẫn đóng khố để thuận tiện cho lao động, thường ngày, họ vẫn mặc trang phục đầy đủ, chiếc khố thường ngày có thể chỉ được sử dụng như một dạng đồ lót mặc trong trang phục thôi vậy. Bản đồ nhiệt độ của thế giới theo thời gian, có thể thấy là nhiệt độ 2000 năm trước lạnh hơn ngày nay khá nhiều. (Theo Richard S Williams Jr, Jane G Ferrigno (2012). State of the Earth’s cryosphere at the beginning of the 21st century: Glaciers, global snow cover, floating ice, and permafrost and periglacial environments. Director;508:344-6840.). 2. Vấn đề thứ hai, một vấn đề logic mà chúng ta thường bỏ quên: văn minh vật chất, văn minh tinh thần phải đi cùng với trang phục. Những người tạo ra những chiếc trống đồng phức tạp và tinh xảo, với trình độ luyện kim thượng thừa, ý niệm nghệ thuật phi thường, cô đọng, ẩn giấu những triết lý thâm sâu mà hậu thế chúng ta ngày nay còn chưa thể hiểu hết được, không lẽ lại là những người dã man, kém văn minh, không biết may trang phục mà mặc hay sao? Xét về tính logic, nếu còn mặc trang phục như thế, thì con người chưa tới tiến ngưỡng cửa văn minh, bởi dệt vải, may trang phục là nền tảng cơ bản đầu tiên chứng tỏ trình độ văn minh của cư dân nông nghiệp định cư. Không biết dệt vải may trang phục, cũng có nghĩa họ không có đủ năng lực vật chất, tri thức và kỹ thuật để tạo nên những chiếc trống đồng tinh xảo, vì vậy cũng sẽ không tồn tại nền văn minh Đông Sơn ảnh hưởng rộng lớn tới khắp vùng Đông Á và Đông Nam Á như vậy. Trống đồng: Biểu tượng cho thời đại văn minh của người Việt. (Ảnh: trống đồng Khai Hoá, Bảo tàng Viên) 3. Người Việt có nguồn gốc chung với các dân tộc ở vùng miền Bắc Việt Nam và Nam Trung Hoa như: Mường, Tày, Thái, Choang… [2] Có thể thấy họ đều có trang phục, và trang phục đều có những điểm chung và có sự tương đồng, thống nhất nhất định trong dạng trang phục, màu sắc, hoa văn, suy luận một cách hợp lý, thì người Việt cũng phải có một dạng trang phục tương tự như thế. 4. Những logic chúng tôi đề cập tới ở trên đã thể hiện việc phục trang cởi trần đóng khố cho người Việt thời Hùng Vương là bất hợp lý, bởi họ là những người thuần hóa lúa nước từ sớm, phát triển đời sống nông nghiệp định cư, tạo ra nguồn lương thực dư thừa để phát triển đời sống vật chất, biểu hiện qua các giai đoạn đồ đá, đồ ngọc cho tới đồ đồng. Đời sống văn minh đó phải đi cùng với trang phục, đi cùng với kỹ thuật dệt vải, điều này sẽ được chúng tôi chứng minh thông qua những bằng chứng chứng tỏ kỹ thuật dệt vải của người Việt khởi nguồn từ thời kỳ Hà Mẫu Độ tới Lương Chử và văn hóa Phùng Nguyên cho tới Đông Sơn. III. Cơ sở cho trang phục từ khảo cổ học và lịch sử: Chúng tôi sẽ đi tìm những cơ sở từ khảo cổ học và thư tịch lịch sử để chứng minh sự tồn tại của vải, kỹ thuật dệt vải cùng với khả năng sản xuất vải số lượng lớn, là những tiền đề chứng minh cho sự tồn tại trang phục của người Việt trong thời kỳ Hùng Vương. 1. Liệu người Việt có biết dệt vải hay không? a. Bằng chứng từ khảo cổ học: Người Việt đã biết dệt vải từ rất sớm, ngay từ thời điểm văn hóa Hà Mẫu Độ đã tìm thấy những mảnh khung dệt nguyên thủy sớm nhất thế giới, kế thừa nó là văn hóa Lương Chử có niên đại hơn 5000 năm trước ngày nay đã có dấu tích của những sợi lụa, sau khi họ di cư về Việt Nam, tại văn hóa Phùng Nguyên, cũng đã thể hiện những dấu tích quan trọng chứng minh kỹ thuật dệt vải: dấu vải và dọi xe sợi. Tới thời Đông Sơn thì nghề dệt vải đã thịnh đạt, chiếm thế chủ đạo trong đời sống của người Việt, và họ cũng phát triển được nhiều chất liệu vải khác nhau. ◊ Dấu tích tại văn hóa Hà Mẫu Độ và Lương Chử: – Những mảnh của khung dệt nguyên thủy cũng được tìm thấy từ các địa điểm của văn hóa Hà Mẫu Độ tại tỉnh Chiết Giang, di vật sớm nhất được tìm thấy có mốc niên đại vào khoảng 8000 năm trước ngày nay [3], đây là những mảnh khung dệt cổ nhất thế giới, kế cận giai đoạn này, là những mảnh khung dệt có niên đại khoảng 6500 năm cách ngày nay (hình dưới). Khung dệt được phát hiện tại Dư Diêu, Chiết Giang thuộc văn hóa Hà Mẫu Độ, có niên đại khoảng 6500 năm cách ngày nay. [Nguồn] – Dấu tích vải với các chất liệu lụa, vải lanh (hemp) và vải gai (ramie) đã được tìm thấy trong các địa điểm văn hóa Lương Chử – Chiết Giang, có niên đại từ 2700 năm trước Công nguyên. Đây là các chất liệu cơ bản được kế thừa và sử dụng trong các văn hóa từ Phùng Nguyên cho tới Đông Sơn, thời kỳ Đông Sơn cũng tìm được 3 loại chất liệu cơ bản này trong vải mặc. [4] Mảnh lụa, sợi lụa và mảnh vải gai được tìm thấy tại văn hóa Lương Chử, có niên đại tới khoảng 4700 năm BP. [Nguồn: 1, 2, 3] ◊ Dấu tích tại các văn hóa Phùng Nguyên cho tới Đông Sơn tại Việt Nam: – Khoa khảo cổ đã tìm thấy rất nhiều dọi xe sợi trong các di chỉ thuộc giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên cách nay 4000 năm. GS.TS Hán Văn Khẩn, Viện khảo cổ học Việt Nam xác nhận: “Dọi xe chỉ tìm thấy khá phổ biến trong văn hóa Phùng Nguyên. Nó được làm bằng đất sét tương đối mịn hoặc tương đối thô… Dọi xe sợi có đường kính trung bình 0,6 – 2cm… Như vậy, nghề dệt vải đã phổ biến trong văn hóa Phùng Nguyên. Cư dân văn hóa này ít nhất có hai loại vải mặc, đó là vải dệt từ sợi và vải vỏ cây”. [5] Dọi xe sợi văn hoá Phùng Nguyên (cách nay 4000 năm) [Tạ Đức, 2013, Nguồn gốc người Việt – người Mường] Dọi xe sợi có chức năng se nguyên liệu thành sợi vải. Đây là bằng chứng quan trọng chứng tỏ cho sự tồn tại của kỹ thuật dệt vải. Tư liệu về cách sử dụng dọi xe sợi của châu Âu và châu Mỹ cổ đại. – Khảo cổ học Việt Nam phát hiện nhiều vết tích vải vóc bao bọc trên các đồ sứ, đồ đồng, nhất là trong các mộ táng. Tại Bắc Bộ Việt Nam tìm thấy dấu vết các loại vải sớm trong các di tích Châu Can, Phùng Nguyên, Đồng Đậu, chứng tỏ người Phùng Nguyên đã biết dệt vải (Lê Văn Lan, Trịnh Minh Hiên [1973: 236]). [6] – Một số mộ táng thời Hùng Vương ở Lâm Thao (Phú Thọ) thuộc giai đoạn văn hóa Gò Mun cách nay 3.000 năm thấy rõ vết vải liệm trên hài cốt. Các mộ Châu Can (Hà Tây cũ), mộ Việt Khê (Hải Phòng) thuộc văn hóa Đông Sơn cách nay 2.800 năm đến thế kỷ II trước công nguyên, đều có vải liệm. [5] Vải thời văn hoá Đông Sơn. (Nguyễn Việt) – Năm 2002, trung tâm tiền sử Đông Nam Á kết hợp với bảo tàng Hưng Yên khai quật khu mộ táng hình thuyền ở Động Xá, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Từ khoảng 1200 miếng vải to nhỏ khai quật được phát hiện ra 7 loại vải, làm từ ba cỡ sợi của hai lối dệt khác nhau. Ngoài những phát hiện các loại vải khá giống ở mộ Châu Can, mộ Động Xá còn tìm thấy hơn 20 miếng vải làm từ những băng sợi lanh màu nhuộm chàm. Nền vải chính dệt xen kẽ những sợi gai cho thấy sự đa dạng trong kiểu cách thời bấy giờ, có những loại vải phục vụ riêng cho yêu cầu trang trí hoặc để may cắt và thêu trang phục. [7] Vải thời văn hóa Đông Sơn [Nguyễn Việt] – Năm 2005 hai tiến sĩ khảo cổ học Nguyễn Việt và Bùi Văn Liêm hợp tác với hai tiến sĩ khảo cổ học người Úc, khai quật ngôi mộ ở Động Xá (Hưng Yên) có niên đại 2.100 (+_60 năm). Trong ngôi mộ tìm thấy một tấm vải liệm còn nguyên vẹn, bên trong còn bọc vài lớp vải nữa… Họ kết luận: “Dữ liệu vải sợi của đội khảo cổ Việt Nam – Úc ở Đông Xá khẳng định rằng, nghề dệt vải đã phát triển trong thời đại kim khí ở Bắc Việt Nam và rằng vải giữ vai trò trung tâm trong mộ táng Đông Sơn, không chỉ cho trang phục mà còn làm chiếu, vải bọc và vải liệm”. [5] Miếng vải nguyên vẹn trong mộ Động Xá. [Nguồn] b. Bằng chứng từ lịch sử: Thư tịch lịch sử cũng ghi lại một dấu tích quan trọng chứng tỏ cho sự phát triển và quy mô của nghề dệt vải của người Việt trong thời gian đầu thời kỳ Bắc thuộc: Sử có ghi lại rằng, vào thế kỷ I – II, vào thời nhà Hán, nhà Ngô đô hộ đất nước ta, chính quyền đô hộ buộc dân Việt phải cống nộp vải Cát Bá (một loại vải bông trắng mịn), vải tơ chuối, lụa tơ tằm. Tới thời Đường, chính quyền Trung Quốc đánh thuế người Việt bằng các loại vải, lụa, sa, the. Điều này cho thấy, vải dệt dành cho may mặc của người Việt từ đầu công nguyên đã rất phong phú, đẹp đẽ, và được người Hán ưa chuộng. Các tài liệu của Trung Quốc cũng ghi chép về các loại vải tơ chuối, vải bông (cát bá), các loại vải này là minh chứng cho sự phát triển của nghề dệt vải tới độ đa dạng về chất liệu của người Việt thời kỳ hậu Đông Sơn không lâu, cũng như khả năng sản xuất số lượng lớn, với chi tiết Sĩ Nhiếp đưa về làm cống phẩm cho triều đình hàng nghìn tấm vải cát bá mịn. Sách Quảng chí của Trung Quốc chép: “Ở Giao Chỉ, thân cây chuối xé ra như tơ, dệt thành vải gọi là tiêu cát, dễ rách, nhưng đẹp, màu vàng nhạt. Cũng gọi là vải Giao Chỉ.” Từ vải tơ chuối, lại tiến đến vải dệt bằng sợi quả cây bông vải, gọi là vải cát bối hay cát bá. Sách Ngô lục của Trương Bột ghi: “Huyện Yên Định ở Giao Châu có cây bông cao hơn một trượng, quả to như chén rượu, da mỏng, trong ruột như mối tơ, sắc trắng bạch, làm vải được…”. Trong những sản vật mà Sĩ Nhiếp đưa về làm cống phẩm có hàng nghìn tấm vải cát bá mịn (…) Đã dệt được khăn bông, thêu hoa, gọi là “bạch diệp”. [5a] 2. Những chiếc khuy áo và khóa thắt lưng: Những bằng chứng từ khảo cổ và lịch sử chứng tỏ rằng cư dân tộc Việt đã biết dệt vải từ sớm, tại Việt Nam, thì người Việt cũng đã sản xuất được vải ngay từ thời văn hóa Phùng Nguyên sau khi di cư về Việt Nam, tới thời Đông Sơn thì đã có khả năng sản xuất số lượng lớn, cung cấp vải cho đa số cư dân. Và chúng tôi còn tìm thấy những bằng chứng chứng tỏ cho sự tồn tại của trang phục thời kỳ Hùng Vương: khuy áo và khóa thắt lưng. – Những chiếc khuy áo bằng đồng này được phát hiện tại di chỉ Gò Quê trên địa bàn văn hóa Sa Huỳnh, cùng với nhiều hiện vật Đông Sơn khác như hộ tâm phiến, dao găm (sắt và đồng), rìu cân xòe cùng những chiếc khuy đồng này, trên đó có dấu vết của vải [Trịnh Sinh]. Những chiếc khuy này từng được thấy sớm nhất trong mộ Việt Khê (Hải Phòng, thế kỷ 3 TCN), cũng như xuất hiện trong nhiều di chỉ Đông Sơn khác. Theo thông tin khảo cổ, thì tại ngôi mộ Việt Khê cũng đã thu thập được nhiều loại vải khác nhau. [Nguyễn Việt] Chiếc khuy đồng Đông Sơn trong mộ Việt Khê được trưng bày tại bảo tàng lịch sử Việt Nam. [Nguồn: Bảo tàng lịch sử Việt Nam, chụp bởi báo Kiến Thức, dẫn] Theo Ts. Lâm Thị Mỹ Dung, thì loại khuy này đã có tiền thân là loại khuy bằng ngọc được phát hiện trong thời văn hóa Đồng Đậu (3500 năm trước ngày nay). Khuy bằng ngọc thời văn hóa Đồng Đậu (3500 trước). [Bùi Hữu Tiến, LVTS: Văn hóa Đồng Đậu và vị trí của nó trong thời đại đồng thau ở lưu vực sông Hồng] Bên cạnh đó, khảo cổ học Việt Nam phát hiện rất nhiều những chiếc khóa thắt lưng bằng đồng, với nhiều kiểu dáng khác nhau, được đúc tinh xảo với nhiều kiểu dáng tinh tế. Những chiếc thắt lưng tinh xảo được sử dụng cùng với trang phục thời Đông Sơn. [Nguồn: BST Phạm Lan Hương, BST Bảo tàng Barbier-Mueller] Đây là những bằng chứng rất quan trọng chứng tỏ vấn đề trang phục của người Việt thời kỳ Hùng Vương: có khuy, có khóa thắt lưng, tức có trang phục, không chỉ thế, trang phục còn có thể phát triển tới độ phức tạp và cầu kỳ, tư duy về trang phục của Tổ Tiên chúng ta cũng đã rất tiến bộ. 3. Bằng chứng trực tiếp về trang phục trong tài liệu khảo cổ: Bên cạnh những tư liệu gián tiếp chứng minh sự tồn tại trang phục thời kỳ Hùng Vương, thì chúng tôi cũng đã tìm thấy một bằng chứng chứng minh thời kỳ Hùng Vương đã có trang phục. Theo TS Nguyễn Việt, năm 2000, trung tâm tiền sử Đông Nam Á đã cùng với các chuyên gia nước ngoài khai quật mộ thuyền Châu Can, chủ nhân của ngôi mộ là một thanh niên tuổi khoảng 18 đến 20, trên người có trang phục, mặc áo có diềm khâu, diềm tua. Vạt áo trang trí dệt bằng hai loại sợi hỗn hợp: sợi lanh (cannabis) và lụa (silk). Những mảnh thắt lưng ở mộ Châu Can được dệt bằng chất liệu sợi vải gai (boehmira) có bề ngang rộng khoảng 6cm. [7] Như vậy tài liệu khảo cổ đã trực tiếp chứng minh rằng thời kỳ Đông Sơn đã có trang phục, dạng trang phục này có kết cấu tương đồng với dạng áo váy quấn thân sang trái mà chúng tôi sẽ phục dựng lại ở phần tiếp theo đây. IV. Thử tìm hiểu về chất liệu, kỹ thuật dệt may và màu sắc của vải trong thời kỳ này: 1. Chất liệu: a. Theo các tài liệu khảo cổ học: Theo tài liệu khảo cổ học, thì có 3 chất liệu cơ bản được sử dụng trong dệt may của người Việt thời Đông Sơn: Có ba chất liệu được khảo cổ xác nhận chắc chắn được sử dụng trong dệt may trang phục Đông Sơn, đó là sợi tơ tằm, sợi làm từ cây gai, và sợi làm từ cây lanh. [8] Các chất liệu cơ bản này đã bắt đầu được sử dụng từ thời văn hóa Lương Chử, với những mảnh vải, sợi vải lụa, gai và lanh tìm được có niên đại sớm nhất vào khoảng 4700 năm trước ngày nay, thời kỳ Đông Sơn hay tới thời phong kiến và ngày nay, người Việt vẫn tiếp tục sử dụng những chất liệu này trong may mặc trang phục. Lụa có thể cũng đã được sử dụng phổ biến từ ngay thời kỳ này, với nhiều dấu lụa tìm được tại văn hóa Lương Chử. Tới thời Đông Sơn, thì những khảo cứu khảo cổ học cũng đã cho phép khẳng định về việc sử dụng phổ biến sợi tơ tằm, thêm vào đó, thì tài liệu lịch sử cũng ghi lại rằng trong giai đoạn đầu công nguyên, trong khi Trung Quốc một năm chỉ nuôi được 3 lứa tằm thì năng suất tằm ở Giao Chỉ, Nhật Nam, Lâm Ấp một năm đạt được tới 8 lứa, tạo ra nguồn cung lớn để cung cấp vải lụa cho các tầng lớp cư dân. [Thủy Kinh Chú, Tam Đô Phú, Tề Dân Yếu Thuật] [7] [9] b. Theo các tài liệu lịch sử: Người Việt cũng đã sáng tạo ra rất nhiều loại vải khác nhau, dựa trên những loại chất liệu có nguồn gốc từ tự nhiên: “Nghề dệt đan cũng là một thành tựu đáng kể của người Bách Việt cổ. Khảo cổ học đã phát hiện khoảng 20 loại vải khác nhau đã từng xuất hiện ở cộng đồng này, phổ biến có vải đay, vải gai, tơ, lụa, gấm, the, vải thuyên, v.v. với nhiều khổ vải khác nhau tùy theo từng vùng, trong đó nổi tiếng nhất là các loại vải làm từ sợi gai, đay [Li Hui-Lin 1983: 48]. Chất liệu may mặc thiên về thực vật. Vào khoảng 1.000 năm trCN, vùng Bách Việt đã sản xuất được nhiều chủng loại vải vóc khác nhau, như tơ đay, tơ gai, tơ lụa, the, vải thuyên, vải sa, vải tơ rối v.v… Vải bông xuất hiện muộn hơn. Đến đầu CN, dân Đông Lạc Việt ở đảo Hải Nam đã sản xuất loại vải khổ to rất được ưa chuộng (theo Hậu Hán Thư). Ban Cố trong Hán Thư viết “… (Vùng Nam Việt) gần biển, có tê giác, voi, trân châu, bạc, đồng, trái cây, gấm vóc..”, “(Đảo Hải Nam) nam thì làm đồng, nữ thì dệt vải”. Trong mộ Nam Việt Vương tại Quảng Châu tìm thấy “bao vải đay”, “bó dây thừng vải đay” và nhiều “di vật bằng lụa” khác. Khảo cứu của Eberhard W. [1968: 270-277] cho thấy loại vải cát bối (sớm nhất ở Lâm Ấp), vải ngô đồng, vải câu mang, vải mộc miên và vải làm từ vỏ cây dó là đặc sản Lĩnh Nam và Vân–Quý, kết quả của tài trí tận dựng các loại chất liệu thực vật chỉ có ở địa phương. Hơn thế, kỹ thuật dùng vỏ cây dó của người Bách Việt được xem là tiền thân của nghề chế tạo giấy, mà sau này người Hán ghi công phát minh cho Thái Luân đời Tây Hán [Eberhard W. 1968: 270-275]. Đặc biệt hơn, tiểu vùng Tây Lạc Việt còn có loại vải tơ chuối, được sản xuất bằng kỹ thuật tiến bộ. Loại vải này rất phù hợp với kiểu thời tiết nóng bức của mùa hè nên rất được ưa chuộng (ghi trong Nam Châu Dị Vật Ký, Ngô Đô Phú, Nam Phương Thảo Mộc Trạng). Về sau kỹ thuật chế biến truyền rộng khắp Lĩnh Nam, đến thời Đường, nó đã trở thành vật triều cống của nhiều vùng đất như Quảng Châu, Triều Châu, Đoan Châu, Phong Châu, Hạ Châu, Tân Châu (thuộc Quảng Đông), thậm chí lên đến tận Kiến Châu vùng Ngô-Việt (ghi trong Nguyên Hòa Quận Huyện Chí). Vải trúc tuy chỉ là mặt hàng thứ cấp song cũng sớm xuất hiện trong lịch sử. Ngoài ra, cây ngô đồng cũng cung cấp lượng nguyên liệu dệt vải đáng kể.” [6] 2. Kỹ thuật dệt may: Thời kỳ văn hóa Đông Sơn, đã có những nghiên cứu chứng minh những kỹ thuật phức tạp trong dệt may trang phục: sử dụng xen kẽ các loại sợi để tạo thành các loại vải chất lượng cao, kỹ thuật thêu, kỹ thuật dệt đăng-ten (tạo khoảng trống). – Trong ngôi mộ cổ Việt Khê ở Thủy Nguyên – Hải Phòng khai quật năm 1958, và khu ngôi mộ ở xã Châu Can, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Sơn Bình (Hà Tây cũ) khai quật năm 1974 đã thu thập được nhiều loại vải khác nhau. Khu mộ ở Châu Can đã tìm được những mảnh vải của trang phục, nhiều nhất là ngôi mộ số 3 và số 6. Nhận xét bước đầu: “Những mảnh vải sợi không được se lại mà để nguyên sợi tự nhiên, sợi dọc thưa hơn sợi ngang và cách đều khoảng 2mm sợi ngang bé hơn đượt dệt dày xít nhau đều đặn”. Có những mảnh vải có đường mép dọc và ngang, điều này chứng tỏ sợi vải được dệt vòng đi vòng lại. Theo ý kiến của kĩ sư phòng kĩ thuật dệt thuộc nhà máy dệt kim Đông Xuân thì đây là loại vải sợi đay hay gai, sợi dọc to và thưa hơn sợi ngang nhưng rất đều. Chiều ngang và chiều đọc vải đều có đường biên, khổ vải hẹp, có thể vải được dệt bằng phương thức con thoi với khung cửi. Khi nói về thời đại kim khí, F. Ăng-ghen nhận xét: “Thành tựu thứ nhất là khung dệt vải, thành tựu thứ hai là việc nấu quặng và chế tác đồ kim loại”, vậy từ những mảnh vải, lụa và kĩ thuật dệt ở khu mộ Châu Can đã chứng tỏ trình độ văn minh phát triển ở thời Hùng Vương. [7] – Theo TS Nguyễn Việt, năm 2000, trung tâm tiền sử Đông Nam Á đã thu thập nghiên cứu cùng với người nước ngoài để bảo quản thành công các miếng vải cổ trong mộ thuyền Châu Can. Những mảnh vải này thực sự đã cho ta thấy rõ nét kĩ thuật dệt, cấu tạo trang trí, may cắt, các loại diềm tua và trang phục thời Đông Sơn. Qua nghiên cứu 118 miếng vải lớn nhỏ được chắt lọc ra từ 0,015m khối đất bùn vớt ra từ lòng mộ Châu Can. Những mảnh vải hiện diện rõ những phần khác nhau của trang phục. Trang phục ở mộ mà chủ nhân được chôn là một thanh niên tuổi khoảng 18 đến 20, mặc áo có diềm khâu, diềm tua. Vạt áo trang trí dệt bằng hai loại sợi hỗn hợp: sợi lanh (cannabis) và lụa (silk). Những mảnh thắt lưng ở mộ Châu Can được dệt bằng chất liệu sợi vải gai (boehmira) có bề ngang rộng khoảng 6cm. Kĩ thuật dệt vải thắt lưng đều được se theo kĩ thuật xoắn nhưng hoàn toàn khác so với kĩ thuật se xoắn S phổ biến hiện nay. Những bằng chứng đầu tiên của kĩ thuật thêu (embroidery) cũng đã tìm thấy ở trang phục trong những ngôi mộ này. [7] – Nghiên cứu hơn 1300 mảnh vải và lụa khác nhau có tuổi khoảng 2100 đến 2300 năm, bước đầu biết chúng thuộc loại sợi thân cây gai (boehmira) và lanh (cannabis). Trên một số mảnh vải gai có hiện tượng sợi dọc mất đứt đoạn tạo ra như vải dệt kiểu đăng-ten. Trong những công bố đầu tiên cho rằng do kĩ thuật dệt tạo nên vải như vậy, nhưng sau khi những mảnh vải này qua kính phóng đại cho thấy những vết lồi lõm, so le đều đặn ở phần sợi đăng-ten là dấu ấn tồn tại của những sợi dọc trước đây. [7] 3. Màu sắc của vải và trang phục: a. Theo tài liệu khảo cổ, thì có 4 màu sắc chính thể hiện trên vải cổ thời Đông Sơn: “Có thể nhận ra bốn màu sắc chính trên nền vải sợi thời Đông Sơn: Màu ngà tự nhiên của sợi vỏ cây cũng như tơ tằm (màu natural), màu xanh chàm, màu nâu gụ với những tông màu từ đậm đến tươi hồng, màu vàng nghệ óng của tơ tằm. Bốn màu trên về cơ bản vẫn được lưu truyền và ưa thích cho đến tận ngày nay trong trang phục lễ hội và hàng ngày của các dân tộc sinh sống trên đất Việt Nam.” [8] b. Theo các tài liệu dân tộc học, thì các dân tộc ưa chuộng các màu sắc sau, đều là những màu sắc cơ bản được nhuộm từ các loại lá cây tự nhiên: Màu sắc trên trang phục của các dân tộc: cơ bản nhất là màu chàm từ đậm tới nhạt, được hầu hết các dân tộc cùng nguồn gốc với người Việt ưa chuộng (nó cũng được thể hiện trên nền vải cổ Đông Sơn), sau đó là các màu sắc: trắng, đen, đỏ, hồng, vàng, nâu, xanh, cam, tím. Bạn đọc có thể tìm hiểu kỹ hơn về màu sắc cũng như kỹ thuật nhuộm tại Phần IV, Mục II.5. V. Kết luận: Những bằng chứng ở trên đã chứng tỏ nghề dệt vải của người Việt đã có tiến trình phát triển ít nhất trong hơn 4000 năm, khởi nguồn từ văn hóa Hà Mẫu Độ, kế thừa tại các văn hóa Lương Chử và Phùng Nguyên, tới thời Đông Sơn thì vải đã phát triển về số lượng và đa dạng về chất liệu. Dấu tích về những chiếc khuy áo và khóa thắt lưng cũng chứng tỏ cho sự phát triển của trang phục thời kỳ các vua Hùng của người Việt. Bằng chứng khảo cổ cũng đã chứng minh sự tồn tại của trang phục trong thời kỳ Hùng Vương, với dạng áo váy quấn tương đồng với tư liệu lịch sử đã ghi lại. Do đó vấn đề trang phục của người Việt đã rõ ràng: họ có trang phục, và trang phục được may bằng nhiều loại vải, với nhiều màu sắc khác nhau, cũng như có một tư duy rất phát triển trong thiết kế trang phục. Trong phần hai, chúng tôi sẽ tiến hành tìm kiếm và khảo sát trang phục đã từng tồn tại trong thời kỳ Hùng Vương. PHẦN II PHỤC DỰNG TRANG PHỤC THỜI KỲ HÙNG VƯƠNG I. Nhận thức cơ bản: Những khảo cứu tuần tự của chúng tôi đã chứng minh rằng người Việt thời kỳ Hùng Vương đã có nghề dệt vải rất phát triển, họ đã có trang phục, và những dấu tích quan trọng: khuy áo, khóa thắt lưng chứng tỏ cho sự phát triển trong tư duy trang phục tới độ cầu kỳ, phức tạp và hiện đại, những tác phẩm phác họa người Việt thời kỳ Hùng Vương về hình ảnh người Việt cởi trần đóng khố, không có trang phục vì thế mà hoàn toàn vô lý và không chính xác. Có thể khẳng định người Việt thời Hùng Vương đã có trang phục, không chỉ thế, mà còn đẹp và đa dạng kiểu cách. Dựa trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ tiến hành khảo cứu toàn diện về trang phục thời kỳ Hùng Vương, với cổ vật Đông Sơn được sử dụng làm cốt lõi, chọn lọc và so sánh với cổ vật Điền Việt, đối chiếu với trang phục của các dân tộc có cùng nguồn gốc với người Việt trong vùng Đông Á và Đông Nam Á, cũng như so sánh với các vùng văn hóa có liên hệ với tộc Việt. Một phương pháp nghiên cứu cẩn trọng và toàn diện sẽ giúp chúng ta tìm được trang phục thật sự của người Việt trong thời kỳ Hùng Vương. II. Cơ sở tiến hành và phương pháp thực hiện: 1. Cơ sở tiến hành: Nguồn gốc dân tộc Việt và nguồn gốc tộc Việt là vấn đề cơ bản để xác định chính xác phương pháp tiếp cận của chúng tôi trong khảo cứu trang phục thời kỳ Hùng Vương, khi chúng tôi tham khảo, tìm kiếm và đối chiếu trên diện rất rộng các dân tộc thuộc các hệ ngữ Nam Á, Nam Đảo, Tai-Kadai, Hmong-Mien trong vùng Đông Á và Đông Nam Á. Nguồn gốc từ một cộng đồng chung là cơ sở cơ bản để xác định tính liên kết trong văn hóa và trang phục của các nhóm dân có nguồn gốc từ tộc Việt. a. Nguồn gốc tộc Việt: Chúng tôi đã khảo cứu kỹ lưỡng về nguồn gốc tộc Việt và nguồn gốc dân tộc Việt Nam trong bài: Khảo cứu về nguồn gốc dân tộc Việt Nam [dẫn]. Chúng tôi sẽ đề cập qua trong bài khảo cứu này để bạn đọc hình dung cơ bản về nguồn gốc tộc Việt. Tộc Việt có nguồn gốc cư dân cổ di cư từ vùng Đông Nam Á đi lên trong thời điểm hơn 12000 năm trước do nạn biển tiến, khiến vùng sinh sống của họ là vùng đồng bằng sông Hồng nối liền với đảo Hải Nam chìm xuống biển. Nghiên cứu của Chuan Chao Wang và cộng sự năm 2013 [11] đã phát hiện một dòng di cư rất lớn từ Đông Nam Á vào thời điểm 12.000 năm trước lên vùng Động Đình, Dương Tử, dòng di cư này cũng đã đi lên cả vùng đồng bằng sông Hoàng Hà. Bản đồ thiên di của những người cha cho thấy dòng di cư lên phía Bắc từ Đông Nam Á trong thời điểm khoảng 10000 năm trước. (Gary Stix (2008). Traces of a distant past. Scientific American;299(1):56-63) Cư dân cổ gốc Đông Nam Á đã sinh sống tại vùng Động Đình, Dương Tử và bắc Đông Á, hình thành nên các văn hóa Cao Miếu, Hà Mẫu Độ, Lăng Gia Than tại vùng Động Đình, Dương Tử, và các văn hóa Hồng Sơn, Đại Vấn Khẩu, Ngưỡng Thiều tại vùng bắc Đông Á, sau đó cư dân tiền Việt đã di cư về Động Đình, Dương Tử để hình thành tộc Việt với các văn hóa Lương Chử và Thạch Gia Hà. Tới thời điểm hơn 4000 năm trước, đã xảy ra nạn hạn hán [11], khiến cư dân tộc Việt phải di cư về phía Nam. [2][12][13] b. Các cuộc di cư hình thành các dân tộc thuộc các hệ ngữ: Các dân tộc rộng lớn thuộc các hệ ngữ Nam Á, Tai-Kadai và Nam Đảo có một nguồn gốc chung từ cộng đồng tộc Việt. Họ cùng nhau xây dựng nên văn minh tộc Việt tại vùng Động Đình, Dương Tử, trước khi những biến cố xảy ra khiến cư dân tộc Việt phải di cư về Đông Nam Á lục địa, Đài Loan và vùng Đa Đảo. Đây là cơ sở chính để chúng tôi tiến hành phục dựng trang phục thời kỳ Hùng Vương. Các nghiên cứu di truyền học được công bố trong thời gian gần đây đã thể hiện dòng di cư của cư dân tộc Việt về vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo trong khoảng thời gian hơn 4000 năm trước. Nghiên cứu của Viện nghiên cứu hệ gen Việt Nam, Viện Nhân chủng và tiến hóa Max Planck Đức, Phòng thí nghiệm động lực học ngôn ngữ của Đại học Lion Pháp năm 2019 đã thể hiện người Việt có nguồn gốc chủ yếu là những người di cư từ Nam Đông Á về Việt Nam cách đây từ 2.500 – 4.000 năm trước [2]. Nghiên cứu gen của Hugh McColl và các cộng sự năm 2018 [13] (hình 9) cũng có quan điểm tương đồng với nghiên cứu của Viện hệ gen Việt Nam hợp tác với các chuyên gia Pháp, Đức. Cả hai nghiên cứu di truyền trên đều dựa trên các bộ gen cổ và các bộ gen hiện đại. Mô hình di cư ở Đông Nam Á thời tiền sử được xây dựng nên gồm 2 lớp từ châu Phi tới Đông Nam Á vào khoảng 30.000-60.000 năm trước và từ Đông Á di cư ngược về cách đây 2.500 – 4.000 năm. Các tuyến di cư chính giữa Nam Đông Á và Đông Nam Á thời cổ đại. Nghiên cứu về nhân chủng học dựa trên hình thái xương sọ năm 2019 [14] (hình 11) cũng cho thấy nhân chủng học người Việt hiện đại hình thành do dòng di cư từ 4.000 năm trước từ sông Dương Tử. Mô hình di cư hai lớp của cư dân cổ theo hình theo nhân chủng học. Các cư dân thuộc hệ ngữ Nam Á di cư về Việt Nam và Đông Nam Á lục địa, với nhóm chính đã trở về Việt Nam. Bản đồ phân bố hệ ngữ Nam Á thể hiện phân bố của cư dân trong cuộc di cư này. Bản đồ phân bố các dân tộc thuộc hệ ngữ Nam Á tại vùng Đông Nam Á lục địa và Ấn Độ. [Nguồn: Gerard Diffloth (p.c.), trích trong Handbook of East and Southeast Asian Archaeology, 2017, Junko Habu, Peter V. Lape, John W. Olsen.] Người Nam Đảo đã di cư từ vùng Động Đình, Dương Tử sang Đài Loan, sau đó mới xuống vùng Đa Đảo. Bản đồ mở rộng phạm vi của Ngữ hệ Nam Đảo. Các thời kỳ dựa trên những nghiên cứu khảo cổ học. [Dựa trên the Atlas historique des migrations by Michel Jan et al. 1999 and “The Austronesian Basic Vocabulary Database” 2008.] Cư dân thuộc hệ ngữ Tai-Kadai hình thành tại vùng miền Bắc Việt Nam hoặc Quảng Tây sau khi đất Việt chìm vào vòng Bắc thuộc, sau đó một phần đã di cư xuống vùng Đông Nam Á lục địa, một phần ở lại Nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam. Bản đồ các hướng di cư của hệ ngữ Tai-Kadai. [James R. Chamberlain, trích trong Chris Baker, From Yue To Tai, Journal of the Siam Society 90.1 & 2 (2002)] Cư dân thuộc hệ ngữ Hmong-Mien cũng có nguồn gen tương đồng với cư dân tộc Việt (Việt (Kinh), Dai). Gen người Việt và người Dai giống nhau, bên cạnh đó còn tương đồng với người Hmong thuộc hệ ngữ Hmong-Mien. [15] Đây chính là cơ sở để học giả Andréas Lommel trong tác phẩm “Tiền sử” nhận định như sau: “Tất cả miền đất mênh mông từ Thái Bình Dương trở lên đến Hoa Nam Trung Quốc đều có cùng một nền văn hóa. Đảo Bornéo ở Nam Dương (Indonesia) cũng có cùng nghệ thuật như miền sông Hoài thuộc Giang Tô miền Nam nước Ngô thời Xuân Thu Chiến Quốc. Đặc tính văn hóa gắn liền với môi trường sinh sống của thực vật và động vật từ trầu cau, cây dâu đến heo, gà, công. Các phong tục tập quán từ nhuộm răng ăn trầu, xâm mình, cà răng đến lễ hội mừng nước, đua thuyền, vai trò quan trọng của trống đồng và cồng chiêng trong các lễ hội dân gian.”. Nguồn gốc tộc Việt và các dân tộc thuộc các hệ ngữ Nam Á, Nam Đảo, Tai-Kadai cũng như sự tương đồng với hệ ngữ Hmong-Mien là cơ sở chính để chúng ta có thể qua đó tìm hiểu trang phục của người Việt trong thời kỳ Hùng Vương qua các dân tộc có một địa bàn sinh sống rộng khắp trong vùng Đông Á. c. Sự tương đồng trong nguồn gen của các nhóm dân có nguồn gốc từ cộng đồng tộc Việt giai đoạn muộn: Các dân tộc nhóm Nam Á và Nam Đảo tách ra khỏi tộc Việt kể từ thời điểm hơn 4000 năm trước, nhưng vẫn có sự giao lưu, qua lại rất thường xuyên, với biểu trưng chính là những chiếc trống đồng và đồ đồng. Sau thời điểm 4000 năm, cư dân tộc Việt vẫn tiếp tục phát triển trong vùng nam Đông Á và miền Bắc Việt Nam, sau đó được ghi lại như cộng đồng Bách Việt trong sách sử Trung Hoa. Các dân tộc có nguồn gốc từ cộng đồng tộc Việt sau thời điểm này là các dân tộc: Việt, Mường, Thái, Tày, Nùng, Choang… thuộc hai hệ ngữ Nam Á và Tai-Kadai. Sự giao lưu và hòa huyết nội tộc khiến nguồn gen tộc Việt hòa trộn đều hơn, nên gen người Việt trong giai đoạn này có phần khác với người người Nam Á và Nam Đảo di cư xuống trong hơn 4000 năm trước, đặc biệt là người Nam Đảo, họ đã hòa huyết với số đông người Australoid da đen, tuy văn hóa vẫn là tộc Việt nhưng nguồn gen đã thay đổi khá nhiều. Công trình nghiên cứu mới đây của Viện nghiên cứu hệ gen Việt Nam, Viện Nhân chủng và tiến hóa Max Planck (Đức), Phòng thí nghiệm động lực học ngôn ngữ của Đại học Lion (Pháp) năm 2019, đã cho thấy cư dân gốc tộc Việt như Kinh Việt, Tày, Nùng, Choang, Mường, Thái, Hán Hoa Nam… có hệ gen gần nhau và khác biệt so với Hán Hoa Bắc. [2] Sự tương đồng gen của các dân tộc thuộc hai hệ ngữ Nam Á và Tai-Kadai cho chúng ta thấy nguồn gốc chung của các dân tộc trong giai đoạn gần nhất trước khi tộc Việt tan rã, đây là các dân tộc gần nhất để chúng ta có thể tìm hiểu về trang phục thời kỳ Hùng Vương của dân tộc mình. d. Văn hóa Điền Việt và vấn đề nghiên cứu, tiếp cận trong tham khảo cổ vật Điền Việt: Văn hóa Điền Việt cũng thuộc tộc Việt, có cổ vật hoàn toàn tương đồng với đồ đồng Đông Sơn và các vùng tộc Việt khác, điều đó đã được chúng tôi chứng minh thông qua bài khảo cứu về cổ vật các vùng tộc Việt [dẫn], và các nghiên cứu khảo cổ xác nhận tính thống nhất của nó với văn hóa Đông Sơn: Học giả Mỹ Chiou Peng (2008 a: 34) về Điền Việt và Đông Sơn: “Những tư liệu tích lũy hơn nửa thế kỷ qua khẳng định những hiện vật tương đồng từ vùng Đông Sơn và Vân Nam thuộc về hai nền văn hóa anh em trong một vùng văn hóa của người Việt ở bán đảo Đông Dương và Tây Nam Trung Quốc”. Nhà khảo cổ học Việt Nam Chử Văn Tần (1980/2003) đã xác định một loạt các yếu tố tương đồng Điền – Đông Sơn, ngoài trống đồng còn có lưỡi cày hay cuốc hình tim, lưỡi liềm, dao gặt, bàn chải bầu dục, dao găm, kiếm ngắn, rìu lưỡi cân hoa văn hình vảy cá, muôi hình quả bầu, tên đồng mặt cắt tam giác .v.v. [16] Các cổ vật đặc trưng tộc Việt tại vùng Vân Nam của văn hóa Điền Việt. [Nguồn: Bảo tàng tỉnh Vân Nam, Bảo tàng thành phố Yuxi (Ngọc Khê), Vân Nam] Văn hóa Điền Việt theo trường phái nghệ thuật tả thực, nên trang phục được thể hiện trên cổ vật của họ khá rõ, đây là cơ sở để chúng ta đối chiếu, tìm kiếm và so sánh để tìm ra những dạng trang phục trong thời kỳ Hùng Vương. Tuy nhiên cũng cần phải làm rõ một vài vấn đề về văn hóa Điền Việt, do sự đa dạng trong bối cảnh văn hóa và lịch sử Điền thời kỳ đó, nên cần tách bạch để chúng ta nhận diện được cốt lõi văn hóa tộc Việt trong văn hóa của họ. Văn hóa của họ có văn hóa tộc Việt làm cốt lõi, cư dân đa phần cũng là cư dân tộc Việt, tuy nhiên trên phương diện trang phục, kiểu tóc, thì có sự đa dạng nhất định. Wang Ningsheng (1979, 1989) dựa trên cơ sở sự khác biệt trong trang phục, kiểu tóc đã chia các nhân vật trên các tượng đồng và đồ đồng văn hóa Điền Việt thành hai nhóm chính, trong đó tầng lớp cao nhất và chiếm số đông là quý tộc Điền, là cư dân tộc Việt, có đặc trưng trang phục: cả nam và nữ đều mặc áo chẽn thường xuyên có hoa văn dọc sọc, đi chân trần, và đeo khuyên tai lớn. Đàn ông đôi khi mặc một chiếc áo choàng với cổ áo đặc biệt bên ngoài áo chẽn của họ. Đầu của họ búi tóc hoặc búi tóc với một chiếc mấn. Đây là những đặc trưng quan trọng của tộc Việt, trong đó trang phục có thể đa dạng hơn so với đánh giá của Wang Ningsheng. [17] Kiểu đặc trưng trang phục của quý tộc Điền Việt, thuộc nhóm thứ nhất, cư dân tộc Việt tại vùng này. [17] Bên cạnh dạng trang phục này, thì quý tộc Điền Việt còn được thể hiện trong trang phục áo váy quấn, dạng áo váy quấn của họ quấn vạt phải, có phần khác với phong tục chung của tộc Việt. Dạng áo váy quấn thân sang trái được mô phỏng chi tiết hơn trên hình vẽ trên các bức tượng Điền Việt. [1,2] Nhóm thứ hai là tầng lớp bao gồm những người đã chiến đấu chống lại người Điền và những người đã bị họ chinh phục. Phụ nữ thuộc nhóm 2 có đặc điểm là để tóc hai bên, bím tóc dài xuống lưng với hai lọn tóc buông xõa khuôn mặt. Váy của họ dài, rộng và nặng; họ đeo những chiếc vòng (hình dưới). Đàn ông để tóc dài thắt bím hoặc trong hai tết lỏng lẻo. Chiếc áo dài không tay vừa vặn của họ dài đến bắp chân. [17] Hình 1: Trang phục đặc trưng của nhóm thứ hai, thuộc tầng lớp những người chiến đấu chống lại người Điền hoặc bị họ chinh phục. Hình 2: những người đàn ông trong nhóm này là tù nhân hoặc là nạn nhân của chiến tranh. Bên cạnh đó có những tượng với trang phục được thể hiện rất đa dạng, thể hiện có thể họ thuộc các dân tộc khác nhau tới cống nạp và thể hiện lòng trung thành với vua Điền. Các dân tộc khác nhau đến cống nạp, thể hiện lòng trung thành với vua Điền. [17] Qua những cơ sở xác định bối cảnh trang phục và văn hóa này, chúng tôi sẽ sử dụng những đặc điểm chung của văn hóa tộc Việt trong văn hóa Điền Việt đã được loại trừ các yếu tố ảnh hưởng hoặc tới từ bên ngoài để đối chiếu, so sánh với sử liệu, khảo cứu, cổ vật Đông Sơn để tìm được các dạng trang phục gần chính xác nhất. e. Tổng kết: Các cơ sở mà chúng tôi đã dẫn ra cụ thể ở trên, đã thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa người Việt tại miền Bắc Việt Nam từ thời văn hóa Phùng Nguyên với các văn hóa Lương Chử, Thạch Gia Hà, có thể khẳng định người Việt tại Việt Nam là hậu duệ của các cư dân từ vùng Động Đình, Dương Tử (vốn có nguồn gốc từ Việt Nam và Đông Nam Á di cư lên), đây là cơ sở để tham khảo cổ vật và trang phục của các văn hóa này trong phạm vi hạn chế, do thời gian đã cách nhau khá xa, nên chúng tôi sẽ lựa chọn những cổ vật ít có khả năng thay đổi nhất để kết hợp phục dựng với trang phục thời Đông Sơn, trang phục thời kỳ Lương Chử cũng chỉ được sử dụng để đối chiếu và so sánh với thư tịch lịch sử. Cư dân của các văn hóa Lương Chử, Thạch Gia Hà, vào thời điểm hơn 4000 năm trước đã di cư về Lĩnh Nam, Việt Nam và Đông Nam Á, thời điểm đó đa phần là cư dân của hai hệ ngữ lớn: Nam Á như các dân tộc Tây Nguyên, Khmer, Khơ Mú… và các dân tộc tại vùng Nam Đảo, các dân tộc này đã tách ra tộc Việt từ thời điểm đó, cũng như có sự giao thoa, hòa huyết với người Ấn Độ và người Australoid da đen, nên việc tham khảo trang phục của họ cũng cần đối chiếu và so sánh cẩn thận, do đã có sự thay đổi nhất định trong phong cách trang phục. Sau thời điểm 4000 năm, thì các cư dân tộc Việt vẫn tiếp tục phát triển trong một cộng đồng chung tại vùng Nam Dương Tử tới miền Bắc Việt Nam, cho tới khi tộc Việt tan rã do bước chân xâm lược của người Hoa Hạ vào thời Sở-Tần-Hán, đã hình thành các dân tộc thuộc hai hệ ngữ Nam Á như Việt, Mường, và Tai-Kadai như Thái, Tày, Nùng, Choang, Dai… Bên cạnh đó là các dân tộc thuộc hệ ngữ Hmong-Mien như Hmong, Dao. Đây là các dân tộc gần nhất với tộc Việt, nên có thể làm cơ sở gần hơn để đối chiếu với cổ vật và sử liệu về trang phục thời kỳ Hùng Vương. 2. Phương pháp thực hiện: Dựa trên cơ sở nghiên cứu di truyền, khảo cổ và ngôn ngữ về nguồn gốc chung của các cư dân tộc Việt, cùng với khảo sát về văn hóa tộc Việt trong văn hóa Điền Việt ở trên, chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu toàn diện để tìm hiểu về trang phục thời kỳ Hùng Vương theo hướng đi như sau: lấy cổ vật Đông Sơn, thư tịch lịch sử, khảo cứu của các nhà nghiên cứu văn hóa làm nền tảng, rồi tới tìm kiếm, so sánh các cổ vật văn hóa Điền Việt, tiếp theo đó là đối chiếu, so sánh với các dân tộc có nguồn gốc từ cộng đồng tộc Việt ở vùng nam Đông Á và miền Bắc Việt Nam theo các thứ tự ưu tiên mà chúng tôi đã đề cập tới ở phần trên, sử dụng một phần cổ vật về trang phục tại các văn hóa Lương Chử, Thạch Gia Hà, sau đó mới tìm kiếm các dạng trang phục tương đồng với thư tịch lịch sử ở những nơi có liên hệ với tộc Việt. Các vùng có liên hệ với tộc Việt bao gồm vùng châu Mỹ và Bhutan, chúng tôi sẽ tham khảo các dân tộc này trên cơ sở đối chiếu với thư tịch lịch sử để tìm dạng trang phục gần nhất. Việc đối chiếu này không có ý nghĩa khẳng định các dạng trang phục đó là của người Việt, chỉ có thể nói đó là các dạng trang phục tương đồng với trang phục của tộc Việt, chúng ta dựa vào đó để tìm hình dáng gần nhất với trang phục thời kỳ Hùng Vương. Từ hướng đi này, chúng tôi sẽ tiến hành tìm lại trang phục thời kỳ Hùng Vương của dân tộc Việt. III. Tiến hành phục dựng: A. Khảo sát về các dạng trang phục và một vài vấn đề về trang phục thời Hùng Vương: 1. Khảo sát về các dạng trang phục thời Hùng Vương: Trang phục thời kỳ văn hóa Đông Sơn có thể bao gồm cả dạng áo váy, và dạng áo – quần, trong đó dạng áo váy chiếm thế chủ đạo trong trang phục của người Việt, dành cho cả nam và nữ, theo như thư tịch lịch sử đã ghi lại: “Người Việt vùng Lĩnh Nam, đặc biệt là Tây Lạc Việt, thường ngày vẫn mặc áo và váy (theo Hậu Hán Thư, Đông Di Truyện) (áo váy quấn và váy chui đầu), cũng giống như câu ca dao Việt Nam: “Cái thúng mà thủng hai đầu, bên ta thì có bên Tàu thì không”.” [6] Chúng tôi cũng nhận thấy có cơ sở để cho rằng thời kỳ văn hóa Đông Sơn đã có thể có cả dạng trang phục quần. [Xem thêm ở phần Θ Khảo về trang phục quần ở cuối bài khảo cứu] Dựa trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ đi tìm các dạng trang phục tồn tại trong đời sống người Việt, cả hai dạng áo váy và áo quần. ◊ Áo váy quấn vạt áo sang trái (tả nhậm) Sử liệu có ghi lại về việc mặc áo, vạt áo cài sang trái (tả nhậm) của người Việt: “Về phong cách phục trang, cư dân Hoa Hạ mặc vạt áo quấn sang phải, người Bách Việt cài sang trái (tả nhậm). Cuốn Sử Ký viết “Phu (Triệu Đà) cắt tóc xăm mình, mặc áo quấn thân áo sang trái, giống như dân (Âu) Việt vậy”(67). “Tả nhậm” là cách phục trang chung của cư dân Bách Việt.” [6] ◊ Áo hai tà: Những hình ảnh trên trống đồng cũng cho ta một cơ sở về loại áo hai tà cho cả nam và nữ giới, sử dụng cho nhiều đối tượng và mục đích. Dạng áo váy xuông cho cả nam và nữ giới: Trên trống đồng Đông Sơn cũng thể hiện dạng áo váy xuông dành cho cả nam và nữ giới. Áo chui đầu kiểu Poncho: “Cổ sử Trung Hoa như Bác Vật Chí, Dị Vật Chí và Tam Tài Đồ Hội (三才图会, đời Minh), từng nhắc đến khái niệm “dân khoan ngực (穿胸民)”, theo khảo cứu của Eberhard W. [1968: 360-361], đó chính là hình ảnh chiếc áo choàng đầu kiểu poncho đặc trưng của người Việt cổ vùng Dương Tử. Theo tác giả, cư dân Bắc Bộ Việt Nam thời Đường cũng rất chuộng loại áo này.” [6] ◊ Váy xòe xếp ly: Trên thạp Hợp Minh có thể hiện một dạng váy có thể là dạng váy xòe xếp ly. Áo lông chim: Theo khảo cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Thơ, chúng ta cần để ý đến một loại trang phục rất quan trọng để biểu trưng cho quyền lực của người Việt, áo lông chim, áo này đi cùng với văn hoá tôn thờ và xem trọng loài chim của người Việt xưa. Loại áo này có thể được dùng cho cả các vị vua Hùng và quý tộc. “Ngoài các sản phẩm đồ dệt nói trên, áo lông chim cũng là một sản vật đặc trưng Bách Việt. Các cuốn Lĩnh Biểu Kỷ Man, Xích Nhã, Việt Tây Tùng Tải và Lĩnh Ngoại Đại Đáp có dẫn các thủ lĩnh (hoặc vua) các bộ tộc Âu Việt, Lạc Việt và Lâm Ấp thường mặc áo lông thiên nga (hoặc lông chim). Người Hán gọi kiểu áo đó là “điểu y” (鸟衣), gọi cộng đồng mặc áo lông chim là Điểu Di (鸟夷). Áo lông chim gắn liền với tục thờ chim của cư dân địa phương. Hình ảnh “vũ nhân”, “điểu nhân” trên mặt trống đồng hay các sản phẩm có chạm khắc hoa văn Đông Sơn – Điền Việt phản ánh đầy đủ nhận định này.” [6] ◊ Áo lông ngỗng: Theo khảo cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Thơ và Bùi Thiết, thì các cư dân Việt Lĩnh Nam đã sử dụng lông ngỗng làm chất liệu may mặc, có thể là áo khoác lông ngỗng như truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy đã ghi lại. “Ngoài chất liệu thực vật, cư dân trong vùng còn sử dụng lông ngỗng làm chất liệu may mặc. Cuốn Lĩnh Nam Di Vật có chép rằng các tù trưởng các đạo phương Nam thường lấy lông ngỗng dệt làm áo ấm [Bùi Thiết 1999: 191-192]” [6] ◊ Áo khoác vải: Dạng áo khoác vải có dây buộc là một dạng áo phổ thông, được sử dụng trong nhiều nền văn hóa, cũng có thể được sử dụng trong đời sống của người Việt xưa, dành cho cả nam và nữ. 2. Trang phục thời Hùng Vương trong thời Bắc thuộc: Truyền thống trang phục của người Việt có từ thời Hùng Vương được duy trì tới thời điểm nào? Chúng tôi tìm thấy một dấu tích lịch sử quan trọng được ghi lại, chứng tỏ cho sự tồn tại lâu bền của phong tục trang phục Việt trong thời Hán thuộc: Trong sách Tam Quốc Chí, phần Ngô chí có ghi lại: Thế kỷ III SCN, Thái thú Tiết Tông trong tờ sớ xin chọn Thứ sử Giao Châu đã miêu tả người Việt: “tóc búi, chân trần, áo vạt trái”.” Phong tục mặc áo quấn thân sang trái của người Việt còn được duy trì tới ít nhất tới TK III SCN. Điều này cũng có nghĩa trang phục người Việt tới lúc đó vẫn cơ bản giữ nguyên truyền thống từ trước thời Hán thuộc của mình. Do đó chúng ta khi phục dựng trang phục thời hai Bà Trưng, cho tới thời Bà Triệu, hay sau đó, cũng có thể sử dụng trang phục thời Hùng Vương để phục dựng lại. 3. Khố và trang phục thời kỳ Hùng Vương: Trang phục dạng khố là một dạng trang phục tồn tại trong hệ thống trang phục của người Việt thời kỳ Hùng Vương, có ý kiến đề cập đến khái niệm “văn minh” và “không văn minh” đối với dạng trang phục khố để xác định vai trò của nó trong đời sống của người Việt. Vậy khố chính xác được sử dụng trong các hoạt động nào trong đời sống của người Việt? Các tư liệu của văn hóa Điền Việt, qua sự khảo sát cơ bản của chúng tôi ở phần trên sẽ là cơ sở để chúng ta xác định chính xác được khố đóng vai trò như thế nào trong đời sống của người Việt. Trong các bức tượng của văn hóa Điền Việt, qua sự khảo sát rất rộng cổ vật của họ, chúng tôi hầu như không tìm thấy dấu vết của sự tồn tại trang phục dạng khố trong các hoạt động của họ, bao gồm cả tâm linh, di chuyển và đời sống thường nhật. Kiểu đặc trưng trang phục của quý tộc Điền Việt, qua sự khảo cứu của chúng tôi ở phần trên thì là tầng lớp cao nhất của vùng này, là cư dân tộc Việt. [17] Trang phục chính và thường ngày của người Điền Việt là dạng áo váy liền, cùng với đó là áo choàng vải hoặc lông vũ, dạng trang phục này cũng gần tương đồng với trang phục của người Việt. Hầu như không tìm thấy dạng trang phục khố trong đời sống của người Điền Việt. Bên cạnh đó còn một vấn đề nữa, đó là trang phục của các hình họa trên trống đồng, có nhiều người cho rằng trang phục trên trống đồng là chiếc khố. Vậy chính xác những hình ảnh trên trống đồng là dạng trang phục như thế nào? Hình họa được thể hiện trên trống đồng Đông Sơn. [Nguồn: Nguyễn Văn Huyên, Những trống đồng Đông Sơn phát hiện ở Việt Nam] Đầu tiên chúng ta cần xác định chính xác vai trò của những hình họa trên trống đồng: đây là những hình ảnh thể hiện hoạt động tâm linh, do trống đồng là vật thờ trời, nên các hình họa đều được thể hiện với mục đích tế trời, cũng như thờ cúng Tổ Tiên, thờ núi sông. Đây là cơ sở đầu tiên để chúng ta nhìn nhận chính xác về trang phục trong lễ tế, nó yêu cầu sự trang trọng và kín đáo trong trang phục, tương tự như chúng ta ngày nay không được phép ăn mặc hở hang tới các địa điểm tâm linh. Hoạt động tâm linh của người Việt có vai trò rất quan trọng, có thể nói chiếm vai trò chủ đạo trong đời sống của cư dân tộc Việt, do đó các hoạt động này cần có sự nghiêm chỉnh trong trang phục. Tư duy trang phục của người Việt cũng đã rất phát triển, các dạng trang phục đều thể hiện tính triết lý nhất định, đặc biệt là dạng trang phục đi cùng hai tà, nên việc cho rằng người Việt sử dụng chiếc khố trong lễ tế là chưa hợp lý về mặt logic. Hoạt động tâm linh của người Điền Việt cũng đã thể hiện dạng trang phục rất kín đáo. Quan sát kỹ hình họa trống đồng, chúng ta sẽ thấy được hai tà rất dài và rộng, cũng như nối liền với thân và tách từ phần thân dưới, nên nó khó có khả năng là một chiếc khố, phần chân cũng hoàn toàn có khả năng là một chiếc quần, chứ không phải chân trần. Dạng trang phục này khá tương đồng với trang phục sử dụng trong điệu Hoàng Vũ của người Miêu trên đảo Hải Nam, cũng sử dụng áo hai tà và quần. Điệu Hoàng Vũ của người Miêu trên đảo Hải Nam. Như vậy trang phục khố chỉ có thể đóng vai trò trong hoạt động lao động, thể thao hoặc sử dụng như một dạng đồ lót mặc trong trang phục. Trang phục khố ít có khả năng được sử dụng trong hoạt động tâm linh được mô tả trên các hình họa trống đồng, cũng như không đóng vai trò chính trong hệ thống trang phục của người Việt. B. Tiến hành phục dựng trang phục: 1. Trang phục của vua Hùng, thủ lĩnh và quý tộc thời Hùng Vương: 1.1. Trang phục cơ bản của các tầng lớp quý tộc thời Hùng Vương: Đối tượng tham khảo chính: – Những bức tượng trên cán dao găm đồng Đông Sơn: Các bức tượng trên các cán dao găm là nữ giới được thể hiện trang phục rất rõ ràng, vì vậy đây sẽ là cơ sở chính để chúng tôi tìm lại trang phục của quý tộc nữ: – Trang phục của quý tộc của văn hóa Lương Chử: Trang phục thời văn hoá Lương Chử, được các nhà nghiên cứu Trung Quốc phục dựng từ một ngôi mộ vị quý tộc của thời kỳ văn hoá này, là nguồn tham khảo đáng giá cho chúng ta để tìm lại trang phục nam thời văn hoá Đông Sơn, với dạng váy quấn, đầu đội mũ lông chim, cổ đeo vòng nhiều lớp, tay đeo vòng. Đây là những đặc điểm trang phục cơ bản được bảo lưu về thời kỳ văn hoá sau như từ Phùng Nguyên tới Đông Sơn. [Nguồn: dẫn] Trang phục của các vua Hùng, thủ lĩnh và quý tộc cả nam và nữ thời Hùng Vương đều cùng một dạng cơ bản như thế này, từ kết cấu trang phục này, các hoa văn, chi tiết trang trí, chất liệu sẽ được sử dụng để phân định địa vị của người mặc chúng. a. Bộ trang phục của quý tộc nữ: ◊ Kết cấu trang phục cơ bản: Trang phục cơ bản của quý tộc nữ thời kỳ này là áo cùng với váy quấn, áo có thể là dài tay hoặc ngắn tay, váy được quấn quanh thân mình. Nhiều dân tộc Đông Á và Đông Nam Á còn thể hiện một dạng áo váy tương tự như vậy. Dạng áo váy của người Việt có thể có màu sắc cùng với hoa văn áo và chân váy đồng nhất với nhau, chứ không khác màu và đơn điệu như các dân tộc Mường, Thái. Cổ áo cũng có thể xẻ nhẹ tương tự như bức tượng gỗ Điền Việt thứ hai. – Sử dụng cạp váy quấn quanh bụng như các dân tộc Mường, Thái. Trước váy được trang trí với một đoạn vải rời (xế) như trang phục của người Hmong. Vải trước váy, hay xế trong trang phục của người Hmong. Ở bụng của họ cũng quấn một lớp cạp váy, kết cấu trang phục này khá tương đồng với bức tượng trên cán dao găm Đông Sơn. Dạng trang phục này rất tương đồng với các dạng trang phục của người Lê, người Bana, cũng như người Bhutan. Màu sắc và hoa văn trên áo và váy là thống nhất với nhau tương tự như trang phục của người Lê. Cách quấn váy chúng ta có thể tham khảo cách quấn Kira của người Bhutan ở hình ảnh cuối cùng. Trang phục của người Việt khác với các dân tộc là có đoạn vải rời (xế), cũng như có cạp váy quấn quanh bụng. Dạng áo cùng váy quấn của người Lê, người Bana, người Bhutan. Tranh phục dựng của bạn lilsuki khá gần với trang phục của quý tộc nữ thời kỳ Hùng Vương được khắc họa trên các cán dao găm bằng đồng Đông Sơn: Bộ phụ kiện: – Đầu búi tóc hoặc đội khăn tròn đội đầu. – Tai đeo khuyên tròn bằng ngọc hoặc đá mã não. [Xem thêm Phần III, mục I.9. Các dạng khuyên tai cho quý tộc và thường dân] – Cổ đeo những chiếc vòng mã não, ngọc… tương tự như trong các nền văn hoá cổ xa xưa, gốc rễ của Đông Sơn như Lương Chử, Thạch Gia Hà. Vòng được thiết kế thành nhiều lớp dài ngắn nối tiếp nhau (có thể là 3 lớp), tương tự như cách đeo trang sức của thời văn hóa Lương Chử. [Xem thêm phần III mục I.8. Các loại vòng cổ dành cho nam và nữ giới quý tộc] So sánh trang phục thủ lĩnh nam Lương Chử với tượng nữ thời Đông Sơn (dạng vòng cổ nhiều lớp này có thể được sử dụng cho cả nam và nữ) b. Bộ trang phục của quý tộc nam: ◊ Kết cấu trang phục cơ bản: Dạng trang phục của quý tộc nam thời kỳ Hùng Vương, là dạng áo váy quấn, thân áo được quấn sang trái (tả nhậm), như mô tả lại của Tư Mã Thiên trong tác phẩm Sử Ký của mình: “Phu (Triệu Đà) cắt tóc xâm mình, mặc áo quấn thân áo sang trái, giống như dân (Âu) Việt vậy”. (Sử ký Tư Mã Thiên, Nam Việt Uý Đà Liệt Truyện, bản dịch của Nhữ Thành) Tài liệu khảo cổ về văn hóa Đông Sơn cũng ghi lại một dạng áo với vạt áo được trang trí, cùng mảnh thắt lưng, chứng tỏ đây là một dạng áo váy quấn, có kết cấu tương đồng với dạng áo được mô tả trong Sử Ký như chúng tôi tìm lại dưới đây. “Trong mộ thuyền Châu Can được khai quật, những mảnh vải hiện diện rõ những phần khác nhau của trang phục. Trang phục ở mộ mà chủ nhân được chôn là một thanh niên tuổi khoảng 18 đến 20, mặc áo có diềm khâu, diềm tua. Vạt áo trang trí dệt bằng hai loại sợi hỗn hợp: sợi lanh (cannabis) và lụa (silk). Những mảnh thắt lưng ở mộ Châu Can được dệt bằng chất liệu sợi vải gai (boehmira) có bề ngang rộng khoảng 6cm.” [7] Hình vẽ trang phục dạng áo váy quấn trên trống đồng Động Xá. Dạng áo này được thể hiện rõ ràng trong tranh phục dựng trang phục thủ lĩnh nam thời Lương Chử, loại trang phục này tồn tại rất lâu về sau này ở các dân tộc khắp vùng Đông Á. Với người Việt, thì hoa văn, màu sắc cũng như chất liệu có thể là quy chuẩn cho vị thế của người mặc. Trang phục quý tộc Lương Chử. [Nguồn: dẫn] Dạng áo váy quấn của người Việt là áo dài tay, chân váy có thể dài tới quá nửa đầu gối, chứ không ngắn như tranh phục dựng thời văn hóa Lương Chử. Thân áo cũng được quấn theo hướng ngược lại so với tranh phục dựng, tức tả nhậm (quấn thân sang trái). Thử so sánh với trang phục của người Bhutan, thì chúng tôi nhận thấy dạng áo váy quấn này hoàn toàn tương đồng với áo Gho. Dạng áo váy quấn (kiểu giao lĩnh) là trang phục của nhiều dân tộc khắp vùng Đông Á, Bhutan cũng là vùng thuộc văn hóa Đông Á cổ xưa, có nhiều đặc điểm của văn hóa Đông Á, kiểu trang phục của họ có thể mang dấu ấn từ xa xưa. Chúng ta có thể tham khảo trực tiếp kiểu dáng áo của họ, và sử dụng màu sắc và hoa văn Việt mà chúng tôi liệt kê ở phần IV để trang trí và thiết kế. Cả hai dạng áo váy quấn dành cho nam, và áo váy dành cho quý tộc nữ mà chúng tôi tìm lại ở trên đều khá tương đồng với bộ đôi áo váy dành cho quý tộc nam (Gho) và nữ (Kira) của người Bhutan. Bộ phụ kiện: – Đầu đội băng đô hoặc búi tó. – Đối với nam giới cũng có những chiếc vòng mã não, ngọc nhiều lớp như đối với nữ. [Xem thêm phần III mục I.8. Các loại vòng cổ dành cho nam và nữ giới quý tộc] – Tai cũng đeo khuyên tròn tương tự như nữ giới. [Xem thêm phần III mục I.9. Các dạng khuyên tai cho quý tộc và thường dân] – Bụng đeo thắt lưng, khóa thắt lưng được sử dụng cùng với vải để cố định thân áo. Những chiếc khóa thắt lưng có thể được dành riêng cho quý tộc nam. [Xem thêm phần III mục I.10. Khóa thắt lưng và gài đai lưng dành cho quý tộc và thường dân] ◊ Trang phục của các vị vua Hùng: Với các vị vua Hùng, họ cũng sử dụng dạng áo váy quấn thân sang trái như chúng tôi đã tìm lại ở trên, tuy nhiên dạng áo của họ sẽ cầu kỳ, phức tạp hơn, được may bằng loại vải tốt nhất, cũng như có thể rộng và dài hơn so với trang phục quý tộc, ống tay và thân váy rộng hơn, chân váy có thể dài chấm đất, như vậy sẽ thể hiện được tính quyền uy của các vị. Trang phục của vua Hùng cũng sử dụng những chiếc khóa thắt lưng với độ tinh xảo cao hơn so với của quý tộc. Đây có thể là chiếc thắt lưng dành riêng cho các vị vua Hùng, bởi sự khác biệt và tinh xảo của nó so với tất cả các loại khóa thắt lưng khác đã tìm thấy được. [Nguồn: Bảo tàng Barbier-Mueller] Trang phục của thủ lĩnh Lương Chử được bảo tàng tỉnh Chiết Giang phục dựng có thể là một nguồn tham khảo cho chúng ta về trang phục của các vị vua Hùng, với mũ lông chim và áo váy quấn vạt trái. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. 1.2. Áo choàng lông chim và lông vũ dành cho vua, hoàng tộc và thủ lĩnh vùng: Vua, hoàng tộc hay thủ lĩnh vùng cũng sử dụng những dạng trang phục của quý tộc nam và quý tộc nữ như chúng tôi đã tìm lại ở trên, với sự khác biệt trong thiết kế, chất liệu cũng như hoa văn và màu sắc, bên cạnh đó, có thể họ còn có dạng áo để thể hiện tính quyền lực của mình: những chiếc áo choàng lông chim và lông vũ. Cả hai dạng áo này trong thư tịch lịch sử được ghi lại dành cho những người thuộc tầng lớp cao trong xã hội. Với nam giới, thì dạng áo lông chim được ghi lại sử dụng cho vua hoặc thủ lĩnh vùng ở khắp vùng Hoa Nam và Việt Nam, trong địa bàn của quốc gia Văn Lang: “Các cuốn Lĩnh Biểu Kỷ Man, Xích Nhã, Việt Tây Tùng Tải và Lĩnh Ngoại Đại Đáp có dẫn các thủ lĩnh (hoặc vua) các bộ tộc Âu Việt, Lạc Việt và Lâm Ấp thường mặc áo lông thiên nga (hoặc lông chim).” [6] Còn đối với nữ giới, thì dạng áo lông ngỗng được ghi lại như một dạng trang phục của Mị Châu, một Mị Nương (hoàng tộc) của thời An Dương Vương. Dạng áo này rất cầu kỳ và phức tạp trong may mặc, yêu cầu nhiều thời gian, công phu cũng như nguyên liệu, nên chúng chỉ dành cho một số đối tượng hãn hữu, là các tầng lớp cao nhất trong xã hội. a. Áo choàng lông chim dành cho vua, hoàng tộc và thủ lĩnh nam: Đối với các vị vua, thủ lĩnh nam giới, thì họ sử dụng những chiếc áo choàng lông chim, với vai trò thể hiện địa vị, do tính cầu kỳ và phức tạp trong thiết kế và may mặc của nó. Dạng áo này đã được ghi nhận trong thư tịch lịch sử, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống người Việt. Ở vùng Đông Á chúng tôi hầu như không tìm thấy dấu tích của chúng, nhưng thật may mắn là người bản địa Hawaii còn lưu giữ loại áo khoác lông chim này. Các dạng áo khoác lông chim của người Hawaii và cách sử dụng trong thực tế. [Nguồn: tổng hợp qua công cụ tìm kiếm hình ảnh của Google] Người Việt và người Polynesian liên hệ với nhau như thế nào? Các nghiên cứu di truyền đã chứng minh về một phần nguồn gốc tộc Việt của người Polynesian, họ di cư từ vùng Động Đình, Dương Tử sang Đài Loan sau đó xuống vùng Đa Đảo [18][19], bao gồm cả đảo Hawaii, cư dân tại đây có phong tục tương đồng với tộc Việt, như việc ăn trầu. Sự liên hệ của người Việt và người Polynesian còn được thể hiện qua nghiên cứu gen của loài heo, theo nghiên cứu này, thì loài heo tại Hawaii có nguồn gốc trực tiếp từ miền Bắc Việt Nam [20], chứng tỏ sự giao thương và trao đổi giữa hai vùng trong thời kỳ sau thời điểm 4000 năm. Văn hóa Đông Sơn cũng ảnh hưởng tới vùng Đa Đảo với biểu hiện là trống đồng và các di vật bằng đồng có phong cách Đông Sơn. Do đó, chúng ta có thể tham khảo kiểu dáng áo của người Polynesian bản địa Hawaii để phục dựng lại dạng áo lông ngỗng và lông chim của tộc Việt. Dạng lông, dạng màu sắc của loại áo lông chim của người Việt có thể sử dụng lông các loài chim bản địa Việt Nam và Hoa Nam có màu sắc đẹp. Loại áo này có thể được sử dụng cho mùa đông, có đồng thời hai chức năng: biểu tượng quyền lực và giữ ấm. Chúng tôi còn tìm được cách thức chi tiết làm loại áo này, bạn đọc có thể xem ở đây. b. Áo choàng lông ngỗng, lông thiên nga dành cho hoàng tộc, thủ lĩnh nữ: Đối với hoàng tộc, thủ lĩnh nữ, thì áo choàng lông ngỗng hoặc lông thiên nga được họ sử dụng để thể hiện tính quyền lực của mình. Dạng áo này được ghi lại trong truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy, cũng như trong thư tịch lịch sử như một dạng áo dành cho hoàng tộc. Dạng áo này cũng không còn dấu tích ở vùng Hoa Nam và Đông Nam Á, nhưng thật may mắn vì người Hawaii ngoài việc có dạng áo lông chim, họ còn có cả dạng áo choàng sử dụng lông ngỗng. Chiếc áo lông ngỗng này được một nghệ nhân Hawaii có tên Boris Huang phục dựng lại, kiểu dáng gần tương tự dạng áo choàng lông chim, nhưng thay vào vì sử dụng lông chim thì tác giả sử dụng lông ngỗng, tạo thành một chiếc áo choàng với màu sắc thuần trắng rất đẹp và phù hợp với nữ giới. 1.3. Dạng áo choàng vải dành cho thủ lĩnh, quý tộc nam và nữ: Bên cạnh những dạng trang phục chính mà chúng tôi đã tìm lại ở trên, thì trong trang phục của người Việt còn có thể tồn tại dạng áo choàng vải, được choàng bên ngoài trang phục chính, sử dụng cho các tầng lớp từ hoàng tộc, thủ lĩnh cho tới quý tộc. Cách thiết kế, màu sắc, chất liệu và hoa văn trang trí giữa các tầng lớp sẽ có sự khác biệt. Chúng tôi có tìm thấy một dạng áo choàng vải của người Mông Njua tại Lào, dạng áo choàng vải này cũng có kết cấu tương đồng với dạng áo choàng lông vũ ở trên, sự khác biệt ở chất liệu và họa tiết, áo choàng vải sử dụng chất liệu vải, và trên áo sẽ được thiết kế họa tiết, may thêu nhiều kiểu dáng cầu kỳ hơn. Áo choàng vải của người Mông Njua, được gọi là “tia”. [Nguồn: Robyn Maxwell, 2003, Textiles of Southeast Asia: tradition, trade, and transformation.] Từ kết cấu áo choàng vải cơ bản này, áo sẽ được thiết kế các họa tiết khác nhau cho nam và nữ, các kiểu áo choàng vải trên trang phục của người Điền Việt là một gợi ý cho cách trang trí họa tiết trên áo choàng vải. Áo choàng vải dành cho thủ lĩnh, quý tộc nữ: Với quý tộc nữ, thì dạng áo choàng vải được thể hiện khá rõ ràng trên tượng đồng Điền Việt, với áo được choàng bên ngoài trang phục, có dây buộc trước cổ, cũng như được trang trí bằng hoa văn các loài vật: Phượng, Hươu…, chứng tỏ đây là dạng áo dành cho tầng lớp cao trong xã hội. Với dạng áo của người Việt, cũng có thể sử dụng các vật tổ như Rồng – Phượng, hay hình tượng mặt trời để thiết kế trên áo để biểu trưng cho hoàng tộc và quý tộc. Áo choàng vải dành cho thủ lĩnh, quý tộc nam: Đối với thủ lĩnh, quý tộc nam, thì dạng áo cũng cơ bản tương đồng với áo choàng của thủ lĩnh, quý tộc nữ, được thể hiện khá rõ ràng trên tượng đồng Điền Việt. Dạng áo này cũng có dây buộc trước cổ, choàng bên ngoài trang phục chính. Dạng áo choàng vải cũng được các nhà nghiên cứu Trung Quốc phục dựng lại, chúng ta có thể tham khảo được kiểu dáng và cách thức trang trí được thể hiện trong tranh phục dựng: 2. Các dạng trang phục khác trong đời sống của người Việt: 2.1. Các dạng trang phục dành cho thường dân: a. Dạng áo váy quấn với hoa văn đơn giản dành cho nam giới: Bên cạnh dạng áo váy quấn với hoa văn, chất liệu cao cấp hơn dành cho quý tộc, thì kiểu áo váy quấn cũng được dành cho cả thường dân, với hoa văn đơn giản hơn hoặc không có hoa văn, khi nó được ghi lại như một đặc trưng của người Việt. Trong sách Tam Quốc Chí, phần Ngô chí có ghi về phong tục trang phục của người Việt: “tóc búi, chân trần, áo vạt trái”.” 2. Các dạng trang phục khác trong đời sống của người Việt: 2.1. Các dạng trang phục dành cho thường dân: a. Dạng áo váy quấn với hoa văn đơn giản dành cho nam giới: Bên cạnh dạng áo váy quấn với hoa văn, chất liệu cao cấp hơn dành cho quý tộc, thì kiểu áo váy quấn cũng được dành cho cả thường dân, với hoa văn đơn giản hơn hoặc không có hoa văn, khi nó được ghi lại như một đặc trưng của người Việt. Trong sách Tam Quốc Chí, phần Ngô chí có ghi về phong tục trang phục của người Việt: “tóc búi, chân trần, áo vạt trái”.” Dạng áo váy quấn thân sang trái được mô phỏng chi tiết hơn trên hình vẽ trên các bức tượng Điền Việt. [1,2] Dạng áo váy quấn thân sang trái được mô phỏng chi tiết hơn trên hình vẽ trên các bức tượng Điền Việt. [1,2] b. Dạng áo váy xuông đơn giản cho thường dân: Bên cạnh dạng trang phục áo váy quấn, thì còn có dạng áo váy xuông đơn giản, cũng dành cho dân thường, với thân liền váy, có thể có hoặc không thắt dây vải quanh bụng. Đây là dạng áo váy có thể được sử dụng cho cả nam và nữ giới, được thể hiện rõ ràng trên trống đồng Đông Sơn và Điền Việt, và cũng được ghi lại trong thư tịch lịch sử: “Người Việt vùng Lĩnh Nam, đặc biệt là Tây Lạc Việt, thường ngày vẫn mặc áo và váy (theo Hậu Hán Thư, Đông Di Truyện) (áo váy quấn và váy chui đầu), cũng giống như câu ca dao Việt Nam: “Cái thúng mà thủng hai đầu, bên ta thì có bên Tàu thì không”.” [6] Dạng váy xuông trên trống đồng Đông Sơn. [Nguồn: Những trống đồng Đông Sơn phát hiện ở Việt Nam – Nguyễn Văn Huyên] Theo hình vẽ trên cả hai trống đồng Điền Việt và Đông Sơn, thì đây là dạng váy dành cho cả nam và nữ, có kích thước nhỏ hơn dạng áo váy trùm cho quý tộc, với nam giới có thể sử dụng cùng dây lưng, còn với nữ giới có thể sử dụng cùng cạp váy. Đây là một dạng áo phổ thông, cùng một dạng với loại áo trùm cho quý tộc chúng tôi tìm lại ở phía dưới. Dạng áo váy xuông của người Điền được phục dựng lại bởi các nhà nghiên cứu Trung Quốc: c. Dạng áo hai tà cho nữ giới: Dạng áo hai tà cũng là một đặc trưng của người Việt, khi dạng áo này được sử dụng cho nhiều đối tượng mà mục đích, dành cho cả nam và nữ. Trên rìu đồng Đông Sơn cũng thể hiện hình ảnh một gia đình bao gồm cha, mẹ và con cái đều mặc dạng áo hai tà, cũng như hình ảnh nữ giới mặc chiếc áo hai tà được thể hiện trên hoa văn Đông Sơn. Áo hai tà được thể hiện cho cả nam và nữ trên rìu đồng, cũng như cho riêng nữ trên hình họa trống đồng. [1. Hoa Văn Việt Nam – Nguyễn Du Chi; 2. Những trống đồng Đông Sơn phát hiện ở Việt Nam – Nguyễn Văn Huyên] Dạng áo váy hai tà này có cùng ý nghĩa và ý tưởng thiết kế với áo váy của nữ quý tộc, với lớp xế ở phía trước váy. Dạng áo váy hai tà cũng như có xế là rất phổ biến trong các dân tộc được chúng tôi khảo cứu. Dạng áo hai tà của người Việt xưa có thể được cài khuy và bố trí hoa văn trang trí bên vai trái (tả nhậm), với những chiếc khuy đồng. Áo bao gồm hai lớp, áo váy bên trong, và áo hai tà bên ngoài, tà váy có thể dài bằng hoặc quá lớp váy bên trong. Dạng áo hai tà của người Paiwan. Dạng áo váy hai tà cũng tồn tại trong trang phục của người Dao Tiền. Họ còn cải biến hơn với việc sử dụng khá nhiều tà áo. Trang phục của người Dao Tiền khá tương đồng với cả hai dạng áo váy hai tà và áo váy quấn cùng xế. Người Hmong xưa kia cũng có trang phục với tà áo rộng hơn, tương tự như dạng áo hai tà của người Việt và các dân tộc. Dạng áo hai tà ở người Dao Tiền và người Hmong thời Pháp thuộc. Dạng áo hai tà ở các dân tộc Động, Pa Dí, Kam, La Hủ, Bố Y. d. Dạng váy xòe xếp ly cho nữ giới: Trên thạp Hợp Minh có hoa văn thể hiện một dạng váy xòe xếp ly, dạng váy xòe xếp ly xuất hiện rất phổ biến trong các dân tộc ở Việt Nam và Hoa Nam như Hmong, Choang, Động, Paiwan… [Nguồn: Nguyễn Du Chi, Hoa Văn Việt Nam] Dạng váy xòe xếp ly được thể hiện trên thạp Hợp Minh là liền với thân áo, độ dài có thể tới gần cổ chân. Dạng áo này có thể có thêm chiếc xế hoặc hai tà ở lớp ngoài cùng tương tự như các dân tộc được chúng tôi dẫn ở các hình phía dưới. Dạng váy xòe xếp ly ở các dân tộc Choang, Hmong, Động, Paiwan. 2.2. Dạng áo hai tà sử dụng cho lễ tế: Chúng tôi nhận thấy dạng áo hai tà được sử dụng trong hầu như trên tất cả hình họa trên các trống đồng thời Đông Sơn của người Lạc Việt và cộng đồng tộc Việt, với đa số hình họa được thể hiện cho hoạt động tế lễ. Dạng áo hai tà này cũng xuất hiện trong hình họa của hầu hết các trống đồng ở các vùng tộc Việt khác, cũng dành cho nhiều mục đích và đối tượng như trên trống đồng Đông Sơn. Dạng áo hai tà được thể hiện trên trống đồng Điền Việt và trống đồng Dư Hàng, Chiết Giang. [Nguồn: 1, 2] Kiểu dáng cơ bản của áo hai tà: Dạng áo hai tà theo các hình vẽ trên trống đồng cho thấy thân áo nối liền với áo hai tà, phần chân có thể mặc quần dài, do tính chất trang trọng của các dịp lễ tế. Theo khảo cứu văn hóa, thì tộc Việt có thể đã có trang phục dạng quần. Dạng áo hai tà này còn có thể thấy trong điệu Hoàng Vũ của người Miêu trên đảo Hải Nam. Tà áo của người Việt có thể rộng hơn so với tà của người Miêu trên đảo Hải Nam. Điệu Hoàng Vũ của người Miêu trên đảo Hải Nam [nguồn] Dạng áo hai tà đính lông chim sử dụng cho lễ tế: Dạng áo hai tà với kiểu dáng tương tự như trên được đính thêm lông chim để sử dụng trong lễ tễ, cùng với đó là đội mũ lông chim, như một hình thức hóa trang thành chim, để thể hiện nền văn hóa lưỡng hợp Tiên (Chim) – Rồng của dân tộc Việt (cùng với hình thức xăm mình hình rồng). Trên trống đồng Điền Việt có thể hiện khá rõ ràng hai hình ảnh tương phản: trang phục thường ngày và trang phục lễ tế, trang phục thường ngày là dạng áo váy xuông và váy quấn sử dụng cho đa số cư dân, còn phía dưới là dạng áo hai tà đi cùng lông chim được sử dụng trong các dịp lễ tế. Trong ngày lễ, người Việt cũng có sử dụng cùng với những chiếc mũ lông chim, thường ngày có thể không sử dụng. Dạng mũ lông chim có thể tương tự như của người Paiwan và người Động, với chiếc khăn đội đầu đính lông chim lên phía trên. Mũ lông chim của người Động. [Nguồn: dẫn] Dạng mũ lông chim của người Paiwan. Điệu vũ thờ cúng Tổ Tiên, tế lễ núi sông được thể hiện khá rõ ràng trên trống đồng, với hình ảnh người hóa trang thành chim với áo hai tà đính lông chim và đội mũ lông chim. Điệu vũ thờ cúng Tổ Tiên, tế lễ sông núi, còn giữ được ở người Hmong, được gọi là Hoàng Vũ. Thời nhà Chu cũng sử dụng áo lông chim phục vụ cho mục đích tế lễ tương tự như người Việt. Đây là ảnh hưởng có tính lan tỏa của văn hóa gốc Cao Miếu tại Hồ Nam của người Việt. Điệu Hoàng Vũ của người Hmong trên đảo Hải Nam [nguồn], và áo lông sử dụng trong cúng tế của nhà Chu. 2.3. Dạng áo trùm cho quý tộc và thường dân: Trên trống đồng Điền Việt cũng như tài liệu lịch sử, cũng đã ghi lại và thể hiện những dạng áo trùm khổ rộng, được sử dụng cho các quý tộc, và có thể cả thường dân, có thể có cả chức năng giữ ấm vào mùa đông. a. Dạng áo trùm khổ rộng dành cho quý tộc: Bên cạnh dạng áo trùm dành cho thường dân, bó sát thân hơn, thì còn một dạng áo trùm khổ rộng, có thể được sử dụng cho bậc quý tộc, tương tự như những hình ảnh trên trống đồng văn hóa Điền Việt ở dưới đây. Dạng áo này trông rất giống áo của dân tộc Mapuche, người bản địa Nam Mỹ (Chile). Dạng áo trùm trên trống đồng Điền Việt và dạng áo của người bản địa Nam Mỹ (Chile) [Nguồn]. Dạng áo này và dạng áo trùm trên trống đồng Động Xá và trống đồng Điền Việt là tương đồng về ý tưởng thiết kế (chui đầu), với dạng áo của thường dân được sử dụng cùng dây lưng hoặc cạp váy. Dạng áo trùm này cũng được ghi lại trong thư tịch lịch sử: “Người Việt vùng Lĩnh Nam, đặc biệt là Tây Lạc Việt, thường ngày vẫn mặc áo và váy (theo Hậu Hán Thư, Đông Di Truyện) (áo váy quấn và váy chui đầu), cũng giống như câu ca dao Việt Nam: “Cái thúng mà thủng hai đầu, bên ta thì có bên Tàu thì không”.” [66] b. Dạng áo trùm Poncho: Dạng áo chui đầu kiểu Poncho được cổ sử Trung Hoa như Bác Vật Chí, Dị Vật Chí và Tam Tài Đồ Hội (三才图会, đời Minh), từng nhắc đến khái niệm “dân khoan ngực (穿胸民)”, theo khảo cứu của Eberhard W. [1968: 360-361], đó chính là hình ảnh chiếc áo choàng đầu kiểu poncho đặc trưng của người Việt cổ vùng Dương Tử. Theo tác giả, cư dân Bắc Bộ Việt Nam thời Đường cũng rất chuộng loại áo này. [6] Chúng tôi có tìm được một tư liệu trang phục của dân tộc Mapuche, người bản địa châu Mỹ, họ cũng có liên hệ với văn hóa của tộc Việt, cổ vật của họ có điểm tương đồng với văn hóa Lương Chử và Thạch Gia Hà của tộc Việt, nên chúng ta có thể dựa vào những ghi chép trong cổ sử và tham khảo dạng áo của họ để phục dựng lại dạng áo Poncho thời kỳ Hùng Vương, chúng ta cần sử dụng những hoa văn, màu sắc của người Việt để phác họa lại một trang phục có tính Việt nhất. Dạng áo trùm Poncho này có thể được may bằng vải gai, và có thể được sử dụng như một dạng áo ấm trong mùa đông. Hình vẽ dạng áo choàng Poncho của người bản địa Nam Mỹ (Chile). [Nguồn] Dạng áo Poncho trong thực tế của người bản địa Nam Mỹ (Chile). [Nguồn] 2.4. Dạng áo – quần dành cho cả nam và nữ: Về trang phục dạng quần, chúng tôi chưa tìm được bằng chứng trực tiếp chứng minh trang phục thời Hùng Vương đã có dạng quần, tuy nhiên quần đã xuất hiện từ sớm tại văn hóa Hoa Hạ, sự giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại giữa người Việt và người Hoa Hạ là rõ ràng trong các giai đoạn. Văn hóa Điền Việt cũng đã có quần. Các dân tộc có cùng nguồn gốc với người Việt cũng đã có rất phổ biến trang phục dạng quần. Yu Tianjin và các nhà nghiên cứu Trung Quốc cũng xác định “Tục mặc quần ngắn hay váy ngắn, đội khăn”, là một phong tục của tộc Việt. Do đó có cơ sở để nói rằng thời kỳ Hùng Vương đã có trang phục dạng quần. [Xem thêm mục Θ Khảo về trang phục quần ở cuối bài khảo cứu] Trang phục dạng quần dài và áo khá đơn giản, đa phần các dân tộc đều có cùng một kiểu dáng. Áo và quần riêng biệt, áo có thể là ngắn tay hoặc dài tay. Bên cạnh quần dài, thì còn tồn tại cả dạng quần ngắn, đi cùng với áo dài, đầu đội khăn, đây là một phong tục được Yu Tianjin và các nhà nghiên cứu Trung Quốc kể tới như đặc trưng của văn hoá tộc Việt: “Tục mặc quần ngắn hay váy ngắn, đội khăn”. Các dạng áo – quần của người Paiwan, Dao Đỏ, Hmong, Tày, Nùng. 2.5. Trang phục lao động: a. Khố: Tượng trên cán dao găm Đông Sơn rất phổ biến hình ảnh nam giới cởi trần, đóng khố, đó là hình ảnh có tính nghệ thuật, thể hiện sự mạnh mẽ của giới nam, tương tự như những bức tượng Hy Lạp cổ đại. Thường ngày, người Việt mặc xiêm áo như chúng tôi đã tìm lại ở trên, họ chỉ đóng khố, cởi trần lúc lao động cho thoải mái và tiện lợi. Khố của người Việt thời Hùng Vương có thể còn cầu kỳ hơn, với cả những hoa văn tương tự như trên cán dao găm. Dạng khố cùng hai tà khố trên cán dao găm Đông Sơn và của người Việt thời Pháp thuộc sử dụng trong lao động. Dạng khố của người Việt thời Hùng Vương cũng kín đáo và dày dặn hơn so với khố của người Việt cận đại, có cả hai tà trước và sau, tương tự như khố của người Dayak. Tà sau của khố thể hiện trên cán dao găm [Martin Doustar] và khố của người Dayak. b. Áo tơi: Bên cạnh chiếc khố, thì chiếc áo tơi với chất liệu tự nhiên, dễ tìm kiếm, dễ may mặc như thế này cũng có thể được sử dụng trong đời sống lao động của người Việt xưa. Loại áo này có thể sử dụng khi làm ruộng, khi lao động để tránh nắng mưa. Hình ảnh chiếc áo tơi của người Việt. 2.6. Trang phục của chiến binh: Trong hình ảnh minh họa lại “trang phục” của các chiến binh Đông Sơn, thì họ chỉ cởi trần, đóng khố, đeo hộ tâm phiến và đánh giặc, hình ảnh đó hoàn toàn không chính xác với thực tế khảo cổ học. Khảo cổ học phát hiện rất nhiều mảnh áo giáp bằng đồng, bên cạnh những chiếc hộ tâm phiến, nên trang phục của người lính Việt thời Đông Sơn có thể đã phức tạp và cầu kỳ, chứ không đơn giản là cởi trần, đóng khố, đeo hộ tâm phiến. Mảnh áo giáp bằng đồng thời Đông Sơn. Bên cạnh đó, thì bức tượng của văn hóa Điền Việt cũng đã thể hiện trang phục và áo giáp rất rõ ràng: Chiến binh Điền Việt với bộ áo giáp cùng mũ. [Nguồn] Bản mô phỏng lại bộ giáp trên tượng của văn hóa Điền Việt: Các nhà khảo cổ Trung Quốc đã phục dựng lại trang phục của vua Điền, với áo giáp đi cùng với áo choàng vải hoặc lông vũ như chúng tôi đã tìm lại ở trên. Ngoài dạng áo giáp mảnh như trên, thì chiến binh Việt còn có thể sử dụng áo giáp da và áo giáp vải, cũng có tác dụng rất hiệu quả trong chiến tranh. Các dạng áo giáp có thể được sử dụng cùng với những miếng hộ tâm phiến được phát hiện rất phổ biến trong thời Đông Sơn, được sử dụng để che chắn điểm hiểm yếu trước ngực. Chiến binh cũng có thể có những chiếc khiên phòng thủ bằng gỗ, với hình dáng tương tự như trên tượng đồng Điền Việt: Bản phục dựng chiến binh Đông Sơn từ bạn Phan Thanh Nam (Ấm Chè), đây là bản phục dựng dựa trên sự khảo sát trang phục và cổ vật Đông Sơn và tộc Việt còn sót lại, rất đáng để chúng ta tham khảo: 2.7. Trang phục cho trẻ em: Trang phục của trẻ em là những bản thu nhỏ của trang phục người lớn, từ những trang phục mà chúng tôi đã tìm kiếm lại ở phía trên, chúng ta có thể giản lược họa tiết, thu nhỏ, đưa những hoa văn phù hợp hơn với trẻ em vào trang phục. Chúng ta có thể tham khảo những dạng trang phục cho trẻ em ở các dân tộc ở dưới đây. – Với những bé gái, thì trang phục có thể là những chiếc váy hai tà hoặc váy xoè xếp ly, cài khuy bên trái, hoa văn có thể sặc sỡ một chút. Ảnh 1: trang phục trẻ em Hmong, ảnh 2, 3: Trang phục trẻ em Paiwan [1,2] Trang phục bé gái Paiwan được thu nhỏ từ trang phục người lớn. [Nguồn] – Đối với bé trai, thì chúng ta cũng có thể sử dụng cả hai loại: áo váy quấn tả nhậm, áo váy xuông. Hoa văn trên trang phục của bé trai có thể đơn giản hơn một chút so với của bé gái. Trang phục bé trai Paiwan. [1, 2] 3. Các bộ phận phụ của trang phục: 3.1. Mảnh áo trùm ngực: Các dạng trang phục của nữ giới mà chúng tôi đã tìm lại ở trên có thể được sử dụng cùng với áo trùm ngực với những tua rua trang trí. Loại áo này thường được sử dụng trong những dịp quan trọng như lễ hội, lễ cưới, được sử dụng dành riêng cho các thiếu nữ. Người Kalavan (Đài Loan), người Paiwan (Đài Loan), người Dayak (Indonesia), người Miao (Hồ Nam, TQ). 3.2. Băng đeo chéo: Dạng băng đeo chéo người chúng tôi nhận thấy được các dân tộc sử dụng khá phổ biến, và nó cũng xuất hiện trên các bức tượng của văn hóa Điền Việt. Nó có thể được sử dụng để thể hiện tính quyền lực, hoặc sử dụng trong những dịp quan trọng như lễ hội, lễ cưới… Những bức tượng Điền Việt có thể hiện “băng” đeo chéo người. Băng có thể là băng đơn, hoặc băng đôi đeo chéo thân người, tương tự như các dân tộc ở các ảnh dưới đây. Băng đeo chéo trong trang phục người Kalavan, Tây Nguyên, Dayak, Paiwan, Hmong. 3.3. Khăn: – Có thể đã có những chiếc khăn tương tự như khăn của các dân tộc anh em của người Việt đang sử dụng vào thời văn hoá Đông Sơn, được sử dụng với chức năng giữ ấm, và có thể cả trong những dịp tế lễ. Khăn Piêu của người Thái. [Nguồn] Khăn thổ cẩm của người Mạ (Tây Nguyên). [Nguồn] 3.4. Dép: Người Việt rất ưa thích đi chân đất, do đời sống gắn bó chặt chẽ với đồng ruộng, với nông nghiệp, đây cũng là đặc điểm gắn bó chặt chẽ với người Việt trong thời kỳ trung đại, xuất hiện ở cả tầng lớp bình dân và quý tộc. Tuy nhiên, ngay từ thời văn hóa Hà Mẫu Độ cách ngày nay khoảng 7000 năm, thì người tiền Việt cũng đã sáng tạo ra một dép bằng gỗ, với di vật khảo cổ tìm được tại di tích khảo cổ Cihu, tỉnh Chiết Giang, là chiếc dép bằng gỗ cổ nhất thế giới tìm thấy được. Có thể thấy từ các lỗ xỏ dây, thì đây là một dạng xép xỏ ngón như dép lào chúng ta đi ngày nay. Dép gỗ tìm thấy lại di chỉ Cihu, quận Giang Bắc, thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. [Nguồn] Tới thời văn hóa Lương Chử, thì người Việt cũng đã kế thừa loại dép này, cũng tìm thấy được di vật khảo cổ để lại. Đây là một loại dép có hình dáng hơi khác so với dép thời văn hoá Hà Mẫu Độ, với 6 lỗ thay vì 5 lỗ, hình dáng có thể gần tương tự như hình phục dựng phía dưới. Tới thời văn hóa Lương Chử, thì người Việt cũng đã kế thừa loại dép này, cũng tìm thấy được di vật khảo cổ để lại. Đây là một loại dép có hình dáng hơi khác so với dép thời văn hoá Hà Mẫu Độ, với 6 lỗ thay vì 5 lỗ, hình dáng có thể gần tương tự như hình phục dựng phía dưới. Dép thời văn hóa Lương Chử cùng tranh phục dựng lại. [Nguồn] Tới các thời văn hóa từ Phùng Nguyên cho tới Đông Sơn, người Việt có thể kế thừa những loại hình dép này, tuy nhiên thời tiết của miền Bắc Việt Nam rất khó lưu giữ được những đồ vật bằng gỗ như thế này, hoặc có thể có nhưng chúng tôi chưa tìm thấy được tư liệu, nên chúng ta có thể sử dụng dạng dép của văn hóa Hà Mẫu Độ và Lương Chử. Loại dép này có thể được sử dụng riêng cho bậc quý tộc và các vị vua Hùng, do dân thường thường chỉ đi chân đất như lý do chúng tôi đã đề cập. Những kiểu dáng cũng đã khá cơ bản, nên khả năng chúng sẽ không thay đổi quá nhiều theo thời gian. Theo nghiên cứu khảo cổ của người Trung Quốc, thì người Lương Chử có thể còn sử dụng guốc da thú để giữ ấm trong mùa đông, đây cũng là gợi ý quan trọng để chúng ta thử tìm lại các loại giày dép trong thời kỳ này. 4. Tìm lại các dạng mũ và khăn: 4.1. Vương miện của các vua Hùng: Đối với các vị vua, thì họ có riêng cho mình những chiếc vương miện, do quyền lực của các vị vua Hùng thời kỳ đó là rất lớn, cả về chính trị và tôn giáo, nên họ phải có vật để thể hiện sự khác biệt. Loại vương miện thời kỳ đó chúng ta có thể tham khảo chiếc mũ miện mào chim trên tượng ngọc thời văn hoá Thạch Gia Hà. Mũ miện mào chim thể hiện trên tượng ngọc Thạch Gia Hà. 4.2. Dạng khuôn búi tóc của thủ lĩnh nữ: Dạng khuôn búi tóc của thủ lĩnh nữ được thể hiện trên cán kiếm ngắn có thể hiện hình tượng hai bà Trưng. Chiếc khuôn búi tóc trên chiếc cán kiếm ngắn có thể tương tự như hình ảnh được phục dựng của blog Daiyevon ở phía dưới. Kiểu búi tóc cao, buộc ở giữa này cũng có thể hiện rõ ràng trên tượng cán dao găm Đông Sơn khác, và cũng được thể hiện trên tượng gỗ Điền Việt. 4.3. Khăn đội đầu: Những chiếc khăn tròn đội đầu được các dân tộc sử dụng rất phổ biến, đa phần được sử dụng cho những người trẻ, dành cho cả nam và nữ giới. Mỗi dân tộc sẽ có sự khác biệt trong thiết kế về kích cỡ, hoa văn, cũng như có thể có sự khác biệt trong từng dịp. Chúng ta có thể sử dụng những hoa văn truyền thống của người Việt như chúng tôi đã liệt kê ở phía dưới để thiết kế một dạng khăn riêng biệt của người Việt. Người Dayak, người Yao, người Bana, người Paiwan, người Thuỷ, người Mường, người Bana (nam). Chiếc khăn tương đồng của người Điền. [Nguồn] – Trên khăn vải có thể được thiết kế thêm biểu tượng chữ V, được thể hiện trên bức tượng người quỳ Đông Sơn, có thể có tính tượng trưng cho quyền lực của người quý tộc. So sánh hình ảnh khăn đội chữ V của tượng Lạc Việt Đông Sơn với của tộc Paiwan, Đài Loan. Chiếc khăn tròn đội đầu này có thể đi cùng với mảnh khăn trùm phía sau đầu, tương tự như trên cán dao găm Đông Sơn, có chức năng giữ ấm trong mùa đông. Dạng khăn này khá tương đồng với dạng khăn của người Lô Lô. Cán dao găm Đông Sơn và dạng khăn của người Lô Lô. Dạng khăn tròn đội đầu này có thể sử dụng những hoa văn tứ giác cũng như hoa văn chữ S, đây là hai dạng hoa văn được sử dụng rất phổ biến trong thiết kế trang phục cũng như mũ miện, ngoài ra các họa sĩ cũng có thể sáng tạo các loại hoa văn được chúng tôi liệt kê ở phía dưới. Dạng hoa văn tứ giác trên khăn đội đầu Điền Việt; hoa văn tứ giác và chữ S Đông Sơn và Phùng Nguyên. Những chiếc băng đô được may bằng vải gai, với một kỹ thuật riêng biệt còn được giữ gìn ở các dân tộc Đông Nam Á, được gọi là “supplementary weaving”. Các hoa văn được tạo hình đơn giản tương tự như thế này Dạng hoa văn tứ giác trên khăn đội đầu Điền Việt; hoa văn tứ giác và chữ S Đông Sơn và Phùng Nguyên. Những chiếc băng đô được may bằng vải gai, với một kỹ thuật riêng biệt còn được giữ gìn ở các dân tộc Đông Nam Á, được gọi là “supplementary weaving”. Các hoa văn được tạo hình đơn giản tương tự như thế này: Minh họa chất liệu, hoa văn, cùng cách thêu và dệt băng đô của người châu Mỹ. [Nguồn] 4.4. Khăn vấn: Chiếc khăn vấn, vật dụng rất quen thuộc và phổ biến trong đời sống người Việt cho tới ngày nay, cũng có thể được sử dụng trong đời sống người Việt thời Đông Sơn. Các dân tộc cũng có sử dụng và thể hiện loại khăn vấn này khá phổ biến. Chúng tôi nhận thấy nó có thể có cùng ý nghĩa với loại khăn tròn đội đầu như phía trên. Loại khăn vấn này có thể được sử dụng cho người trung niên và cao tuổi, cho cả nam và nữ giới. Khăn vấn của người Việt, người Paiwan, người Dayak, người Lự, người Lê, người Miao. Chiếc khăn vấn được thể hiện trên cán dao găm Đông Sơn và tượng Điền Việt. Chiếc khăn vấn có thể được chít thêm khăn mỏ quạ, dạng khăn được người Việt ở miền Bắc sử dụng từ rất lâu đời. Chiếc khăn mỏ quạ của người Việt đi cùng với khăn vấn, tương tự như dạng khăn vấn chúng tôi đã tìm lại ở trên. Dạng khăn này giống như một sự “hóa trang” thành chim, trong văn hóa lưỡng hợp Chim-Rồng (Tiên-Rồng) của người Việt, đồng thời cũng có tác dụng giữ ấm cho đầu. Dạng khăn đội đầu của người Thủy, Thái, Dao Đỏ, Cống, Dao Tiền. 4.5. Mũ hình nón: Loại mũ tương tự chiếc nón này rất thường thấy trên các cán dao găm Đông Sơn, chúng tôi thử tìm kiếm, thì thấy chiếc mũ của người Dayak rất giống với chiếc mũ này, và cũng gần tương tự như chiếc nón lá của người Việt ngày nay. Dạng mũ này có thể được sử dụng khi lao động. Mũ của người Dayak; bức tượng trên cán dao găm Đông Sơn có chiếc mũ tương đồng với người Dayak. Dạng mũ này rất tương đồng với nón chóp của lính khố đỏ, có thể đây là một dạng mũ được người Việt lưu giữ trong dòng văn hóa dân gian, sau đó biến thể thành nhiều dạng như loại nón chóp và nón lá: 4.6. Nón dẹt: Trên tượng cán dao găm Đông Sơn cũng có thể hiện một dạng nón dẹt rất đặc biệt. Dạng nón này còn tồn tại ở người Việt, được những người lính khố đỏ thời Pháp thuộc đội. Dạng mũ này có thể dành riêng cho chiến binh. Nón dẹt trên cán dao găm Đông Sơn, và của lính khố đỏ. 4.7. Dạng khăn xếp lớp: Dạng khăn xếp lớp cũng có thể từng tồn tại trong trang phục của người Việt, với hình ảnh được thể hiện khá rõ ràng trên cán dao găm, với các đường lớp được thể hiện khá rõ ràng. Dạng khăn này cũng tồn tại phổ biến trong các dân tộc, được sử dụng cho cả nam và nữ giới. Chiếc dao găm Đông Sơn bên phải có thể hiện một dạng khăn xếp lớp (với các đường nét thể hiện các lớp khăn). Dạng khăn xếp lớp này rất phổ biến trong các dân tộc Việt Nam và Hoa Nam. Người Lê, người Bố Y, người Lự, người Dao Đỏ, người Lê, người Choang, người Miao (3 ảnh cuối). Dạng khăn xếp lớp đã được phục hồi, đưa trở lại cuộc sống của người Việt bởi chúa Nguyễn, được gọi là mũ mấn. Mũ mấn của người Việt trung đại. 4.8. Mũ hình tam giác: Dạng mũ này cũng có thể đã từng được người Việt sử dụng trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn. Nó rất giống với chiếc mũ của người Pa Dí ở miền Bắc Việt Nam. Chiếc mũ trên cán dao găm Đông Sơn và chiếc mũ của người Pa Dí. Dạng mũ này có thể đi cùng với dạng tóc búi thấp phía sau đầu. 4.9. Dạng mũ hình chữ nhật: Dạng mũ hình chữ nhật được thể hiện trên tượng cán dao găm thời Đông Sơn khá tương đồng với mũ của người Choang. Tượng thể hiện mũ chữ nhật trên cán dao găm Đông Sơn tại bảo tàng Barbier-Mueller và dạng mũ trong trang phục của người Choang. 4.10. Mũ dạng khăn đội đầu: Trên cán dao găm Đông Sơn được chúng tôi sử dụng tham khảo trang phục quý tộc nữ có thể hiện khá rõ ràng một dạng mũ trùm đầu (nhìn từ phía trước và phía sau, thì hình vẽ trên cán dao găm giống chiếc mũ hơn là vấn tóc). Chúng tôi nhận thấy dạng mũ này khá tương đồng với dạng mũ của người Lê trên đảo Hải Nam. Dạng mũ này có thể được sử dụng cùng với mái tóc thả xuôi. Mũ trên cán dao găm Đông Sơn và mũ đội đầu của người Lê đảo Hải Nam [Nguồn]. 5. Tìm lại các dạng tóc của người Việt xưa: Các loại mũ có thể có sự đa dạng, nhưng kiểu tóc là đặc trưng của một dân tộc, được sử dụng để nhận diện dân tộc trong thời xưa, về cơ bản, kiểu tóc sẽ không khác biệt quá nhiều giữa các vùng, kiểu tóc có thể được thay đổi vào các dịp ví dụ như phụ nữ có chồng sẽ thay đổi kiểu tóc. Trong sử sách, thì hai kiểu cắt tóc ngắn và búi tóc được ghi lại đặc trưng chung của tộc Việt, cổ vật và kiểu tóc của người Việt cũng thể hiện cơ bản hai dạng tóc đó. 5.1. Các kiểu tóc dành cho nam giới: ◊ Cắt tóc ngắn và búi tó: Cắt tóc ngắn được ghi lại trong sử sách như một đặc trưng của người Việt. Các sách Thuyết Uyển (thiên Phụng Sứ), Hoài Nam Tử (thiên Nguyên Đạo Huấn), Sơn Hải Kinh (thiên Hải Nội Kinh) đều có ghi “người Việt cắt tóc xăm mình cho giống loài giao long để tránh bị hại”. Trong sách Tam Quốc Chí, phần Ngô chí có ghi lại trong chi tiết, Thái thú Tiết Tông trong tờ sớ xin chọn Thứ sử Giao Châu vào thế kỷ III SCN đã miêu tả người Việt: “tóc búi, chân trần, áo vạt trái”.” Nhưng bên cạnh dạng cắt tóc ngắn, thì người Việt còn còn phong tục búi tóc, trong đó phổ biến nhất là kiểu búi tó, với tóc được búi lỡ sau gáy. Cả hai dạng tóc này có thể độc lập hoặc đi cùng nhau. Cả 2 dạng tóc ngắn và búi tó đều được thể hiện trên bức tượng người Việt tại vùng Chiết Giang. Dạng búi tó ở người Việt thời cận đại: Dạng búi thấp phía sau đầu: Dạng búi tóc thấp phía sau đầu được khắc họa trên trống đồng hiện trưng bày tại bảo tàng Hưng Yên. Tết tóc đuôi sam: Người Việt bên cạnh các kiểu búi tóc và cắt tóc ngắn, thì còn tồn tại cả tục tết tóc đuôi sam với hai nhánh ở phía sau đầu, được thể hiện phổ biến trên các tượng cán dao găm đồng Đông Sơn. Dạng tóc này khác biệt cơ bản với kiểu tết tóc của kẻ thù của người Điền Việt mà chúng tôi đã dẫn ở phần trên. Tết tóc đuôi sam Đông Sơn. 5.2. Các kiểu tóc dành cho nữ giới: Nữ giới thì có nhiều kiểu dáng hơn so với nam giới, do đặc điểm giới tính của mình. ◊ Dạng búi tóc lên cao, gập đôi, kẹp vòng hoặc buộc dây cố định cũng có thể là một dạng búi tóc của người Việt xưa, được thể hiện trên bức tượng cán dao găm thời văn hóa Đông Sơn. [Nguồn: Kiều Quang Chẩn] Dạng tóc này cũng được thể hiện trên các tượng đồng và gỗ Điền Việt. Kiểu tóc búi và buộc được thể hiện trên tượng đồng và gỗ Điền Việt. [Nguồn] Kiểu tóc búi cao với vải buộc ở giữa này có thể biến thể thành khuôn chụp tóc tương tự như tượng hai bà Trưng mà chúng tôi đã đề cập trong phần 3.1. ◊ Ngoài ra, thì còn có thể tồn tại cả dạng xõa tóc, tồn tại trên cả cán dao găm Đông Sơn, tượng và hoa văn Điền Việt. Trước đó, trong các thời kỳ Lý Trần, cư dân Việt cũng rất ưa chuộng dạng xõa tóc như thế này. Dạng xõa tóc được thể hiện trên cán dao găm Đông Sơn. Không chỉ cắt ngắn, xõa tóc, mà cả trên tượng Đông Sơn và hoa văn trống đồng Điền Việt, đều thể hiện một kiểu tóc uốn cụp rất hiện đại: Chi tiết hơn về kiểu thả tóc trên trống đồng Điền Việt. Để tóc dài và thả tóc cũng có thể là một kiểu tóc của phụ nữ Việt thời kỳ Hùng Vương với hình họa được khắc trên thạp đồng Hợp Minh: [Nguồn: Nguyễn Văn Huyên] Tết tóc và vấn tóc quanh đầu: Trên tượng cán dao găm Đông Sơn cũng thể hiện hình ảnh nữ giới tết tóc và vấn tóc quanh đầu, tương tự kiểu quấn tóc của người Bố Y ở hình dưới. Kiểu tết tóc trên tượng Đông Sơn và của người Bố Y. Kiểu vấn tóc này khá tương đồng với tranh phục dựng của blog Daiyevon. Dạng búi thấp phía sau đầu: Dạng búi thấp phía sau đầu trên tượng đồng Đông Sơn. Nguồn: Gary Todd. Dạng búi tóc lỡ phía sau đầu là rất phổ biến ở tượng Điền Việt. Vài nhận xét về trang phục thời kỳ Hùng Vương Qua khảo cứu chi tiết, chúng tôi có vài lời cần trình bày với bạn đọc về bối cảnh văn hóa thời kỳ Hùng Vương thông qua trang phục. Văn hóa tộc Việt là rất đa dạng, mỗi vùng lại có sự khác biệt nhất định trong phong tục, ngoài những đặc điểm chung, thì mỗi vùng lại có nét đặc trưng riêng, có thể nói đây là hiện trạng “đại đồng tiểu dị”, đa dạng trong thống nhất của văn hóa tộc Việt. Văn hóa Đông Sơn lại là nơi tập trung sự đa dạng lớn nhất của tộc Việt, khi đây là vùng đồng bằng, trung tâm và có điều kiện phát triển thuận lợi, nên cư dân tộc Việt đã tập trung di cư về Việt Nam trong giai đoạn cuối của tộc Việt, khi bị người Hoa Hạ xâm lược và chiếm đóng. Qua các nghiên cứu di truyền, khảo cổ và ngôn ngữ học, chúng ta có thể thấy được văn hóa thời kỳ Đông Sơn có văn hóa Nam Á chiếm ưu thế, nắm vai trò chính trong chính trị và tâm linh, các cư dân tộc Việt trở về đều hòa vào cốt lõi Nam Á để hình thành dần dần người Việt. Do đó qua đây chúng ta cũng xác định được cơ sở về trang phục chính trong thời kỳ Đông Sơn là của dòng Nam Á, có tính triết lý cao và thống nhất mạnh. Trong bối cảnh đó, văn hóa thời kỳ Đông Sơn đã thể hiện sự đa dạng trong thống nhất. Trang phục chung và cơ bản của tộc Việt là trang phục áo váy quấn tả nhậm, áo váy hai tà, áo choàng lông chim – lông ngỗng, áo choàng vải… Đặc trưng tóc cũng được thể hiện rõ qua phong cách búi tóc và cắt tóc ngắn. Đó là sự thống nhất, còn sự đa dạng được thể hiện rõ nhất qua những chiếc mũ mà chúng tôi đã tìm kiếm trên các cổ vật và đối chiếu với các dân tộc, mỗi vùng Việt có thể lại có một kiểu mũ đặc trưng của mình, bên cạnh các kiểu tóc và trang phục đặc trưng chung của tộc Việt. Khi phục dựng, các họa sĩ hãy tập trung vào các loại mũ từ phần 4.1 tới 4.7, đây là các dạng mũ có thể là của dòng Nam Á, chủ đạo của người Việt thời kỳ Đông Sơn. Phần trang phục cần dựa vào cổ vật và tư liệu mà chúng tôi đã tìm lại ở trên, cùng với đó là tham khảo trang phục các dân tộc để tìm ra hình dáng gần chính xác nhất của trang phục thời Hùng Vương. Lang Linh Chú thích và tài liệu tham khảo: [1] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại 2 lần tuyết rơi ở Cấm thành Thăng Long vào mùa xuân. – Nhâm Ngọ, Long Phù năm thứ 2 (1102), (Tống Sùng Ninh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Lập xuân; tuyết lành xuống. – Giáp Ngọ, Hội Tường Đại Khánh năm thứ 5 (1114), (Tống Chính Hòa năm thứ 4). Mùa xuân, tuyết điềm lành xuống. [2] Liu D, Duong NT, Ton ND, Van Phong N, Pakendorf B, Van Hai N, Stoneking M (2020). Extensive ethnolinguistic diversity in Vietnam reflects multiple sources of genetic diversity. Molecular Biology and Evolution. https://doi.org/10.1093/molbev/msaa099 [3] Earliest Evidence of Pattern Looms Discovered in China https://www.seeker.com/culture/archaeology/earliest-evidence-of-pattern-looms-discovered-in-china [4] Gerard C. C. Tsang, Textile Exhibition: Introduction http://www.asianart.com/textiles/intro.html [5] Vũ Kim Biên, Thời Vua Hùng không có “văn hóa đóng khố“ https://kienthuc.net.vn/tham-cung/thoi-vua-hung-khong-co-van-hoa-dong-kho-326883.html [5a] Trương Chính và Ðặng Ðức Siêu, Sổ tay văn hóa Việt Nam, nxb. Văn Hóa, Hà Nội, 1978, tr. 113-116. [6] Nguyễn Ngọc Thơ (2011), Văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam trong mối quan hệ với văn hóa truyền thống ở Việt Nam. [7] Lịch sử trang phục các triều đại phong kiến Việt Nam. Quang Vũ Trịnh. Nhà xuất bản Văn Hóa – Thông Tin, 2007. [8] Lịch sử vải sợi Việt Nam và vấn đề lễ phục – Nguyễn Việt http://ape.gov.vn/lich-su-vai-soi-viet-nam-va-van-de-le-phuc-ds248.th# [9] Lịch sử ra đời của các chất liệu vải thuần Việt https://www.elle.vn/the-gioi-thoi-trang/lich-su-ra-doi-cua-cac-chat-lieu-vai-thuan-viet [10] Hirofumi Matsumura, Hsiao-chun Hung, Charles Higham, et al. (2019). Craniometrics Reveal “Two Layers” of Prehistoric Human Dispersal in Eastern Eurasia. Scientific reports;9(1):1451. [11] Chuan‐Chao WANG Shi YAN Zhen‐Dong QIN Yan LU Qi‐Liang DING Lan‐Hai WEI Shi‐Lin LI Ya‐Jun YANG Li JIN Hui LI, et al. (2013). Late Neolithic expansion of ancient Chinese revealed by Y chromosome haplogroup O3a1c‐002611. https://onlinelibrary.wiley.com/doi/full/10.1111/j.1759-6831.2012.00244.x [12] Yang, M.A., X. Fan, B. Sun, C. Chen, J. Lang, Y.-C. Ko, C.-h. Tsang, H. Chiu, T. Wang, and Q. Bao, Ancient DNA indicates human population shifts and admixture in northern and southern China. Science, 2020. https://science.sciencemag.org/content/early/2020/05/14/science.aba0909 [13] McColl H, Racimo F, Vinner L, Demeter F, Gakuhari T, Moreno-Mayar JV, Van Driem G, Wilken UG, Seguin-Orlando A, De la Fuente Castro C, Wasef S (2018). The prehistoric peopling of Southeast Asia. Science. 361(6397):88-92. https://science.sciencemag.org/content/361/6397/88 [14] Matsumura H, Hung HC, Higham C, Zhang C, Yamagata M, Nguyen LC, Li Z, Fan XC, Simanjuntak T, Oktaviana AA, He JN. Craniometrics reveal “two layers” of prehistoric human dispersal in eastern Eurasia (2019). Scientific reports. 9(1):1-2. https://www.researchgate.net/publication/330875335_Craniometrics_Reveal_Two_Layers_of_Prehistoric_Human_Dispersal_in_Eastern_Eurasia [15] Zi-Yang Xia, Shi Yan, Chuan-Chao Wang, Hong-Xiang Zheng, et al. (2019) Inland-coastal bifurcation of southern East Asians revealed by Hmong-Mien genomic history [16] Tạ Đức, 2013, Nguồn gốc người Việt – người Mường. [17] Heather A. Peters, 2001, Ethnicity Along China’s Southwestern Frontier. https://www.researchgate.net/publication/233703687_Ethnicity_Along_China’s_Southwestern_Frontier [18] Bing Su và cộng sự, 2000, Polynesian origins: Insights from the Y chromosome. https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC26928/ [19] Per Hage và Jeff Marck, 2015, Matrilineality and the Melanesian Origin of Polynesian Y Chromosomes. https://www.journals.uchicago.edu/doi/10.1086/379272 [20] J. Koji Lum và cộng sự, 2006, Recent Southeast Asian domestication and Lapita dispersal of sacred male pseudohermaphroditic “tuskers” and hairless pigs of Vanuatu. https://www.researchgate.net/publication/6707820_Recent_Southeast_Asian_domestication_ and_Lapita_dispersal_of_sacred_male_pseudohermaphroditic_tuskers_and_hairless_pigs_of_Vanuatu Nguồn: Lược sử Việt Nam Ths Nguyễn Thy Ngà Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin-top:0in; mso-para-margin-right:0in; mso-para-margin-bottom:10.0pt; mso-para-margin-left:0in; line-height:115%; mso-pagination:widow-orphan; font-size:14.0pt; font-family:"Times New Roman","serif";} Dân tộc Việt có một quá khứ đáng tự hào và trân trọng, các vị vua Hùng chính là “linh hồn” kiến tạo nên giai đoạn lịch sử quan trọng đó. DẪN NHẬP Thời kỳ do các vua Hùng làm chủ từng được xem như một giai đoạn huyền sử không có thật, nhưng những khám phá khảo cổ đã chứng tỏ sự tồn tại của một nhà nước trong thời kỳ cội nguồn của dân tộc Việt, được kế thừa truyền thống từ các văn hóa cổ xưa tại vùng Động Đình, Dương Tử trong huyền sử được truyền lại từ ngàn xưa. Họ phát triển mạnh mẽ trình độ văn minh của mình liên tục trong nhiều nghìn năm, thể hiện trên cả hai khía cạnh tinh thần và vật chất, với biểu hiện di vật từ thời kỳ đồ đá, đồ ngọc cho tới đồ đồng, cùng những di sản tinh thần hiện đã phai mờ hoặc biến mất. Sự phát triển đó đi cùng với trình độ văn minh, đi cùng với trang phục, thế nhưng hình ảnh “trang phục” của thời đại này lại được các nhà nghiên cứu khắc họa một cách kỳ lạ và khó hiểu: Trang phục được phục dựng lại một cách bất hợp lý như thế, đã tạo nên những hiểu lầm không nhỏ trong suy nghĩ của người Việt về thời đại các vua Hùng của dân tộc mình, cho rằng thời kỳ đó người Việt đang còn trong trạng thái sơ khai, lạc hậu, bởi đây là dạng trang phục của một dân tộc chậm tiến, kém văn minh, chứ không phải của một dân tộc đã tạo ra những chiếc trống đồng với những ý niệm sâu xa, phi thường, cũng như có một tiến trình phát triển văn minh lâu dài trong nhiều ngàn năm. Chiếc trống đồng Sông Đà đồ sộ và tinh xảo này phải chăng là do những người kém văn minh, không biết may trang phục kia tạo nên? Sự bất hợp lý trong phục dựng trang phục thời kỳ Hùng Vương còn thể hiện rõ hơn, khi chính những phát hiện khảo cổ đã chứng tỏ người Việt biết dệt vải ngay từ thời kỳ văn hóa Hà Mẫu Độ cho tới Lương Chử (cách ngày nay từ 7000 tới 5000 năm), kế thừa vào thời văn hóa Phùng Nguyên (cách ngày nay hơn 4000 năm), tới thời Đông Sơn thì đã có khuy áo, có khóa thắt lưng, chứng tỏ lịch sử lâu dài và sự phát triển tới độ phức tạp và cầu kỳ của trang phục Việt. Vậy nên, trang phục “cởi trần, đóng khố, đeo lá cây” là một hình ảnh bất hợp lý, thiếu chính xác và cũng không khách quan với những thực tế khảo cổ học. Việc phục dựng lại trang phục thời kỳ Hùng Vương là rất quan trọng, có thể tác động tới nhận thức của mọi người về thời kỳ này. Đó là điều chúng tôi cho rằng cần thiết phải làm được, mặc dù sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn, do sự thiếu thốn tư liệu. Nhưng có một điều rất may mắn với chúng ta: còn nhiều dân tộc ở miền Đông Á và Đông Nam Á ngày nay giữ gìn được những nét văn hóa của cộng đồng Việt cổ xưa, trong đó có trang phục, và tư liệu hình ảnh từ các cổ vật văn hóa Đông Sơn, tư liệu cổ sử và văn hóa, cũng như cổ vật Điền Việt là những tư liệu đặc biệt quan trọng để chúng ta tìm lại trang phục cổ của dân tộc mình. Qua những cơ sở đó, chúng tôi sẽ tiến hành phục dựng lại trang phục thời kỳ Hùng Vương, với hướng đi lấy cổ vật Việt thời Đông Sơn làm cốt lõi, so sánh, đối chiếu, chọn lọc qua cổ vật văn hóa Điền Việt, đối chiếu, so sánh với các dân tộc còn lưu giữ những nét văn hóa Việt cổ với sự cẩn trọng cần thiết để có thể tìm lại những dạng trang phục cơ bản nhất của thời kỳ này. Chúng tôi hy vọng rằng công trình này của mình có thể làm cơ sở cho việc phục dựng trang phục Việt cổ thời Hùng Vương sau này, từ đó góp phần thay đổi nhận thức của mọi người về cội nguồn của dân tộc, để có thể thấy được quá khứ đáng tự hào mà Tổ Tiên người Việt đã từng xây dựng nên. Bài khảo cứu sẽ được chúng tôi chia thành bốn phần, phần đầu tiên là tiền đề chứng minh có sự tồn tại của trang phục, phần tiếp theo, chúng tôi sẽ tìm kiếm, phục dựng tương đối các loại trang phục thời Hùng Vương, cũng như tìm lại các dạng mũ miện, trang sức, phụ kiện và các hoa văn sử dụng trong trang trí trang phục. Nếu có bất kỳ điểm nào mà bạn đọc thấy chưa thỏa đáng ở bài viết, xin hãy tự nhiên chia sẻ quan điểm của mình ở phần bình luận, để chúng tôi có thể hoàn thiện hơn bài khảo cứu của mình. Lang Linh PHẦN I CƠ SỞ CHO VẤN ĐỀ TRANG PHỤC THỜI HÙNG VƯƠNG I. Tiền đề: Sử Ký, Tư Mã Thiên có ghi: “Phu (Triệu Đà) cắt tóc xâm mình, mặc áo quấn thân áo sang trái, giống như dân (Âu) Việt vậy”. (Sử ký Tư Mã Thiên, Nam Việt Uý Đà Liệt Truyện, bản dịch của Nhữ Thành) Sử liệu này là tiền đề cơ bản về trang phục của người Việt xưa, với 2 cụm từ quan trọng được nhắc tới về trang phục của tộc Việt: “mặc áo”, “quấn thân áo sang trái”. Như vậy thông qua sử liệu, chúng ta được biết người Việt có trang phục là áo quấn thân áo sang trái (tả nhậm), đối lập với phong cách trang phục của người Hán (hữu nhậm). Sử liệu này cũng phủ nhận đoạn sử cũng được ghi lại trong Sử Ký của Tư Mã Thiên: “…Ở phía Đông đất Mân Việt chỉ vẻn vẹn nghìn người, cũng xưng hiệu là “vương”; ở phía Tây, nước Âu Lạc là nước trần truồng, cũng xưng là “vương”….” II. Những vấn đề logic khi tìm hiểu về trang phục thời kỳ Hùng Vương: 1. Vào thời kỳ Đông Sơn hơn 2200 năm trước, thì nhiệt độ trung bình của trái đất thấp hơn ngày nay khá nhiều (hình dưới), miền Bắc nước ta trong thời kỳ đó lại nằm trong vùng có mùa đông rất lạnh, có thể còn có băng tuyết (đến thời Lý, thời tiết vẫn còn lạnh hơn ngày nay và có hiện tượng băng tuyết ghi lại trong sử sách [1]), thêm nữa, do khí hậu có độ ẩm cao nên mùa đông ở miền Bắc Việt Nam thường lạnh giá hơn so với nhiệt độ thực tế. Với khí hậu như vậy, thì trang phục đóng khố, cởi trần chắc chắn sẽ không thể chống chịu được thời tiết khắc nghiệt trong mùa đông. Khí hậu của miền Bắc Việt Nam cũng có mùa nóng, trang phục có thể đơn giản hơn trong mùa này, người Việt cũng đã sáng tạo ra nhiều chất liệu có tính thoáng mát như vải lanh, vải tơ chuối… để phù hợp cho tiết trời nóng bức. Chiếc khố chỉ được sử dụng trong đời sống lao động, có thể thấy trong các hình ảnh tư liệu thời Pháp thuộc, thì nông dân, ngư dân Việt vẫn đóng khố để thuận tiện cho lao động, thường ngày, họ vẫn mặc trang phục đầy đủ, chiếc khố thường ngày có thể chỉ được sử dụng như một dạng đồ lót mặc trong trang phục thôi vậy. Bản đồ nhiệt độ của thế giới theo thời gian, có thể thấy là nhiệt độ 2000 năm trước lạnh hơn ngày nay khá nhiều. (Theo Richard S Williams Jr, Jane G Ferrigno (2012). State of the Earth’s cryosphere at the beginning of the 21st century: Glaciers, global snow cover, floating ice, and permafrost and periglacial environments. Director;508:344-6840.). 2. Vấn đề thứ hai, một vấn đề logic mà chúng ta thường bỏ quên: văn minh vật chất, văn minh tinh thần phải đi cùng với trang phục. Những người tạo ra những chiếc trống đồng phức tạp và tinh xảo, với trình độ luyện kim thượng thừa, ý niệm nghệ thuật phi thường, cô đọng, ẩn giấu những triết lý thâm sâu mà hậu thế chúng ta ngày nay còn chưa thể hiểu hết được, không lẽ lại là những người dã man, kém văn minh, không biết may trang phục mà mặc hay sao? Xét về tính logic, nếu còn mặc trang phục như thế, thì con người chưa tới tiến ngưỡng cửa văn minh, bởi dệt vải, may trang phục là nền tảng cơ bản đầu tiên chứng tỏ trình độ văn minh của cư dân nông nghiệp định cư. Không biết dệt vải may trang phục, cũng có nghĩa họ không có đủ năng lực vật chất, tri thức và kỹ thuật để tạo nên những chiếc trống đồng tinh xảo, vì vậy cũng sẽ không tồn tại nền văn minh Đông Sơn ảnh hưởng rộng lớn tới khắp vùng Đông Á và Đông Nam Á như vậy. Trống đồng: Biểu tượng cho thời đại văn minh của người Việt. (Ảnh: trống đồng Khai Hoá, Bảo tàng Viên) 3. Người Việt có nguồn gốc chung với các dân tộc ở vùng miền Bắc Việt Nam và Nam Trung Hoa như: Mường, Tày, Thái, Choang… [2] Có thể thấy họ đều có trang phục, và trang phục đều có những điểm chung và có sự tương đồng, thống nhất nhất định trong dạng trang phục, màu sắc, hoa văn, suy luận một cách hợp lý, thì người Việt cũng phải có một dạng trang phục tương tự như thế. 4. Những logic chúng tôi đề cập tới ở trên đã thể hiện việc phục trang cởi trần đóng khố cho người Việt thời Hùng Vương là bất hợp lý, bởi họ là những người thuần hóa lúa nước từ sớm, phát triển đời sống nông nghiệp định cư, tạo ra nguồn lương thực dư thừa để phát triển đời sống vật chất, biểu hiện qua các giai đoạn đồ đá, đồ ngọc cho tới đồ đồng. Đời sống văn minh đó phải đi cùng với trang phục, đi cùng với kỹ thuật dệt vải, điều này sẽ được chúng tôi chứng minh thông qua những bằng chứng chứng tỏ kỹ thuật dệt vải của người Việt khởi nguồn từ thời kỳ Hà Mẫu Độ tới Lương Chử và văn hóa Phùng Nguyên cho tới Đông Sơn. III. Cơ sở cho trang phục từ khảo cổ học và lịch sử: Chúng tôi sẽ đi tìm những cơ sở từ khảo cổ học và thư tịch lịch sử để chứng minh sự tồn tại của vải, kỹ thuật dệt vải cùng với khả năng sản xuất vải số lượng lớn, là những tiền đề chứng minh cho sự tồn tại trang phục của người Việt trong thời kỳ Hùng Vương. 1. Liệu người Việt có biết dệt vải hay không? a. Bằng chứng từ khảo cổ học: Người Việt đã biết dệt vải từ rất sớm, ngay từ thời điểm văn hóa Hà Mẫu Độ đã tìm thấy những mảnh khung dệt nguyên thủy sớm nhất thế giới, kế thừa nó là văn hóa Lương Chử có niên đại hơn 5000 năm trước ngày nay đã có dấu tích của những sợi lụa, sau khi họ di cư về Việt Nam, tại văn hóa Phùng Nguyên, cũng đã thể hiện những dấu tích quan trọng chứng minh kỹ thuật dệt vải: dấu vải và dọi xe sợi. Tới thời Đông Sơn thì nghề dệt vải đã thịnh đạt, chiếm thế chủ đạo trong đời sống của người Việt, và họ cũng phát triển được nhiều chất liệu vải khác nhau. ◊ Dấu tích tại văn hóa Hà Mẫu Độ và Lương Chử: – Những mảnh của khung dệt nguyên thủy cũng được tìm thấy từ các địa điểm của văn hóa Hà Mẫu Độ tại tỉnh Chiết Giang, di vật sớm nhất được tìm thấy có mốc niên đại vào khoảng 8000 năm trước ngày nay [3], đây là những mảnh khung dệt cổ nhất thế giới, kế cận giai đoạn này, là những mảnh khung dệt có niên đại khoảng 6500 năm cách ngày nay (hình dưới). Khung dệt được phát hiện tại Dư Diêu, Chiết Giang thuộc văn hóa Hà Mẫu Độ, có niên đại khoảng 6500 năm cách ngày nay. [Nguồn] – Dấu tích vải với các chất liệu lụa, vải lanh (hemp) và vải gai (ramie) đã được tìm thấy trong các địa điểm văn hóa Lương Chử – Chiết Giang, có niên đại từ 2700 năm trước Công nguyên. Đây là các chất liệu cơ bản được kế thừa và sử dụng trong các văn hóa từ Phùng Nguyên cho tới Đông Sơn, thời kỳ Đông Sơn cũng tìm được 3 loại chất liệu cơ bản này trong vải mặc. [4] Mảnh lụa, sợi lụa và mảnh vải gai được tìm thấy tại văn hóa Lương Chử, có niên đại tới khoảng 4700 năm BP. [Nguồn: 1, 2, 3] ◊ Dấu tích tại các văn hóa Phùng Nguyên cho tới Đông Sơn tại Việt Nam: – Khoa khảo cổ đã tìm thấy rất nhiều dọi xe sợi trong các di chỉ thuộc giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên cách nay 4000 năm. GS.TS Hán Văn Khẩn, Viện khảo cổ học Việt Nam xác nhận: “Dọi xe chỉ tìm thấy khá phổ biến trong văn hóa Phùng Nguyên. Nó được làm bằng đất sét tương đối mịn hoặc tương đối thô… Dọi xe sợi có đường kính trung bình 0,6 – 2cm… Như vậy, nghề dệt vải đã phổ biến trong văn hóa Phùng Nguyên. Cư dân văn hóa này ít nhất có hai loại vải mặc, đó là vải dệt từ sợi và vải vỏ cây”. [5] Dọi xe sợi văn hoá Phùng Nguyên (cách nay 4000 năm) [Tạ Đức, 2013, Nguồn gốc người Việt – người Mường] Dọi xe sợi có chức năng se nguyên liệu thành sợi vải. Đây là bằng chứng quan trọng chứng tỏ cho sự tồn tại của kỹ thuật dệt vải. Tư liệu về cách sử dụng dọi xe sợi của châu Âu và châu Mỹ cổ đại. – Khảo cổ học Việt Nam phát hiện nhiều vết tích vải vóc bao bọc trên các đồ sứ, đồ đồng, nhất là trong các mộ táng. Tại Bắc Bộ Việt Nam tìm thấy dấu vết các loại vải sớm trong các di tích Châu Can, Phùng Nguyên, Đồng Đậu, chứng tỏ người Phùng Nguyên đã biết dệt vải (Lê Văn Lan, Trịnh Minh Hiên [1973: 236]). [6] – Một số mộ táng thời Hùng Vương ở Lâm Thao (Phú Thọ) thuộc giai đoạn văn hóa Gò Mun cách nay 3.000 năm thấy rõ vết vải liệm trên hài cốt. Các mộ Châu Can (Hà Tây cũ), mộ Việt Khê (Hải Phòng) thuộc văn hóa Đông Sơn cách nay 2.800 năm đến thế kỷ II trước công nguyên, đều có vải liệm. [5] Vải thời văn hoá Đông Sơn. (Nguyễn Việt) – Năm 2002, trung tâm tiền sử Đông Nam Á kết hợp với bảo tàng Hưng Yên khai quật khu mộ táng hình thuyền ở Động Xá, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Từ khoảng 1200 miếng vải to nhỏ khai quật được phát hiện ra 7 loại vải, làm từ ba cỡ sợi của hai lối dệt khác nhau. Ngoài những phát hiện các loại vải khá giống ở mộ Châu Can, mộ Động Xá còn tìm thấy hơn 20 miếng vải làm từ những băng sợi lanh màu nhuộm chàm. Nền vải chính dệt xen kẽ những sợi gai cho thấy sự đa dạng trong kiểu cách thời bấy giờ, có những loại vải phục vụ riêng cho yêu cầu trang trí hoặc để may cắt và thêu trang phục. [7] Vải thời văn hóa Đông Sơn [Nguyễn Việt] – Năm 2005 hai tiến sĩ khảo cổ học Nguyễn Việt và Bùi Văn Liêm hợp tác với hai tiến sĩ khảo cổ học người Úc, khai quật ngôi mộ ở Động Xá (Hưng Yên) có niên đại 2.100 (+_60 năm). Trong ngôi mộ tìm thấy một tấm vải liệm còn nguyên vẹn, bên trong còn bọc vài lớp vải nữa… Họ kết luận: “Dữ liệu vải sợi của đội khảo cổ Việt Nam – Úc ở Đông Xá khẳng định rằng, nghề dệt vải đã phát triển trong thời đại kim khí ở Bắc Việt Nam và rằng vải giữ vai trò trung tâm trong mộ táng Đông Sơn, không chỉ cho trang phục mà còn làm chiếu, vải bọc và vải liệm”. [5] Miếng vải nguyên vẹn trong mộ Động Xá. [Nguồn] b. Bằng chứng từ lịch sử: Thư tịch lịch sử cũng ghi lại một dấu tích quan trọng chứng tỏ cho sự phát triển và quy mô của nghề dệt vải của người Việt trong thời gian đầu thời kỳ Bắc thuộc: Sử có ghi lại rằng, vào thế kỷ I – II, vào thời nhà Hán, nhà Ngô đô hộ đất nước ta, chính quyền đô hộ buộc dân Việt phải cống nộp vải Cát Bá (một loại vải bông trắng mịn), vải tơ chuối, lụa tơ tằm. Tới thời Đường, chính quyền Trung Quốc đánh thuế người Việt bằng các loại vải, lụa, sa, the. Điều này cho thấy, vải dệt dành cho may mặc của người Việt từ đầu công nguyên đã rất phong phú, đẹp đẽ, và được người Hán ưa chuộng. Các tài liệu của Trung Quốc cũng ghi chép về các loại vải tơ chuối, vải bông (cát bá), các loại vải này là minh chứng cho sự phát triển của nghề dệt vải tới độ đa dạng về chất liệu của người Việt thời kỳ hậu Đông Sơn không lâu, cũng như khả năng sản xuất số lượng lớn, với chi tiết Sĩ Nhiếp đưa về làm cống phẩm cho triều đình hàng nghìn tấm vải cát bá mịn. Sách Quảng chí của Trung Quốc chép: “Ở Giao Chỉ, thân cây chuối xé ra như tơ, dệt thành vải gọi là tiêu cát, dễ rách, nhưng đẹp, màu vàng nhạt. Cũng gọi là vải Giao Chỉ.” Từ vải tơ chuối, lại tiến đến vải dệt bằng sợi quả cây bông vải, gọi là vải cát bối hay cát bá. Sách Ngô lục của Trương Bột ghi: “Huyện Yên Định ở Giao Châu có cây bông cao hơn một trượng, quả to như chén rượu, da mỏng, trong ruột như mối tơ, sắc trắng bạch, làm vải được…”. Trong những sản vật mà Sĩ Nhiếp đưa về làm cống phẩm có hàng nghìn tấm vải cát bá mịn (…) Đã dệt được khăn bông, thêu hoa, gọi là “bạch diệp”. [5a] 2. Những chiếc khuy áo và khóa thắt lưng: Những bằng chứng từ khảo cổ và lịch sử chứng tỏ rằng cư dân tộc Việt đã biết dệt vải từ sớm, tại Việt Nam, thì người Việt cũng đã sản xuất được vải ngay từ thời văn hóa Phùng Nguyên sau khi di cư về Việt Nam, tới thời Đông Sơn thì đã có khả năng sản xuất số lượng lớn, cung cấp vải cho đa số cư dân. Và chúng tôi còn tìm thấy những bằng chứng chứng tỏ cho sự tồn tại của trang phục thời kỳ Hùng Vương: khuy áo và khóa thắt lưng. – Những chiếc khuy áo bằng đồng này được phát hiện tại di chỉ Gò Quê trên địa bàn văn hóa Sa Huỳnh, cùng với nhiều hiện vật Đông Sơn khác như hộ tâm phiến, dao găm (sắt và đồng), rìu cân xòe cùng những chiếc khuy đồng này, trên đó có dấu vết của vải [Trịnh Sinh]. Những chiếc khuy này từng được thấy sớm nhất trong mộ Việt Khê (Hải Phòng, thế kỷ 3 TCN), cũng như xuất hiện trong nhiều di chỉ Đông Sơn khác. Theo thông tin khảo cổ, thì tại ngôi mộ Việt Khê cũng đã thu thập được nhiều loại vải khác nhau. [Nguyễn Việt] Chiếc khuy đồng Đông Sơn trong mộ Việt Khê được trưng bày tại bảo tàng lịch sử Việt Nam. [Nguồn: Bảo tàng lịch sử Việt Nam, chụp bởi báo Kiến Thức, dẫn] Theo Ts. Lâm Thị Mỹ Dung, thì loại khuy này đã có tiền thân là loại khuy bằng ngọc được phát hiện trong thời văn hóa Đồng Đậu (3500 năm trước ngày nay). Khuy bằng ngọc thời văn hóa Đồng Đậu (3500 trước). [Bùi Hữu Tiến, LVTS: Văn hóa Đồng Đậu và vị trí của nó trong thời đại đồng thau ở lưu vực sông Hồng] Bên cạnh đó, khảo cổ học Việt Nam phát hiện rất nhiều những chiếc khóa thắt lưng bằng đồng, với nhiều kiểu dáng khác nhau, được đúc tinh xảo với nhiều kiểu dáng tinh tế. Những chiếc thắt lưng tinh xảo được sử dụng cùng với trang phục thời Đông Sơn. [Nguồn: BST Phạm Lan Hương, BST Bảo tàng Barbier-Mueller] Đây là những bằng chứng rất quan trọng chứng tỏ vấn đề trang phục của người Việt thời kỳ Hùng Vương: có khuy, có khóa thắt lưng, tức có trang phục, không chỉ thế, trang phục còn có thể phát triển tới độ phức tạp và cầu kỳ, tư duy về trang phục của Tổ Tiên chúng ta cũng đã rất tiến bộ. 3. Bằng chứng trực tiếp về trang phục trong tài liệu khảo cổ: Bên cạnh những tư liệu gián tiếp chứng minh sự tồn tại trang phục thời kỳ Hùng Vương, thì chúng tôi cũng đã tìm thấy một bằng chứng chứng minh thời kỳ Hùng Vương đã có trang phục. Theo TS Nguyễn Việt, năm 2000, trung tâm tiền sử Đông Nam Á đã cùng với các chuyên gia nước ngoài khai quật mộ thuyền Châu Can, chủ nhân của ngôi mộ là một thanh niên tuổi khoảng 18 đến 20, trên người có trang phục, mặc áo có diềm khâu, diềm tua. Vạt áo trang trí dệt bằng hai loại sợi hỗn hợp: sợi lanh (cannabis) và lụa (silk). Những mảnh thắt lưng ở mộ Châu Can được dệt bằng chất liệu sợi vải gai (boehmira) có bề ngang rộng khoảng 6cm. [7] Như vậy tài liệu khảo cổ đã trực tiếp chứng minh rằng thời kỳ Đông Sơn đã có trang phục, dạng trang phục này có kết cấu tương đồng với dạng áo váy quấn thân sang trái mà chúng tôi sẽ phục dựng lại ở phần tiếp theo đây. IV. Thử tìm hiểu về chất liệu, kỹ thuật dệt may và màu sắc của vải trong thời kỳ này: 1. Chất liệu: a. Theo các tài liệu khảo cổ học: Theo tài liệu khảo cổ học, thì có 3 chất liệu cơ bản được sử dụng trong dệt may của người Việt thời Đông Sơn: Có ba chất liệu được khảo cổ xác nhận chắc chắn được sử dụng trong dệt may trang phục Đông Sơn, đó là sợi tơ tằm, sợi làm từ cây gai, và sợi làm từ cây lanh. [8] Các chất liệu cơ bản này đã bắt đầu được sử dụng từ thời văn hóa Lương Chử, với những mảnh vải, sợi vải lụa, gai và lanh tìm được có niên đại sớm nhất vào khoảng 4700 năm trước ngày nay, thời kỳ Đông Sơn hay tới thời phong kiến và ngày nay, người Việt vẫn tiếp tục sử dụng những chất liệu này trong may mặc trang phục. Lụa có thể cũng đã được sử dụng phổ biến từ ngay thời kỳ này, với nhiều dấu lụa tìm được tại văn hóa Lương Chử. Tới thời Đông Sơn, thì những khảo cứu khảo cổ học cũng đã cho phép khẳng định về việc sử dụng phổ biến sợi tơ tằm, thêm vào đó, thì tài liệu lịch sử cũng ghi lại rằng trong giai đoạn đầu công nguyên, trong khi Trung Quốc một năm chỉ nuôi được 3 lứa tằm thì năng suất tằm ở Giao Chỉ, Nhật Nam, Lâm Ấp một năm đạt được tới 8 lứa, tạo ra nguồn cung lớn để cung cấp vải lụa cho các tầng lớp cư dân. [Thủy Kinh Chú, Tam Đô Phú, Tề Dân Yếu Thuật] [7] [9] b. Theo các tài liệu lịch sử: Người Việt cũng đã sáng tạo ra rất nhiều loại vải khác nhau, dựa trên những loại chất liệu có nguồn gốc từ tự nhiên: “Nghề dệt đan cũng là một thành tựu đáng kể của người Bách Việt cổ. Khảo cổ học đã phát hiện khoảng 20 loại vải khác nhau đã từng xuất hiện ở cộng đồng này, phổ biến có vải đay, vải gai, tơ, lụa, gấm, the, vải thuyên, v.v. với nhiều khổ vải khác nhau tùy theo từng vùng, trong đó nổi tiếng nhất là các loại vải làm từ sợi gai, đay [Li Hui-Lin 1983: 48]. Chất liệu may mặc thiên về thực vật. Vào khoảng 1.000 năm trCN, vùng Bách Việt đã sản xuất được nhiều chủng loại vải vóc khác nhau, như tơ đay, tơ gai, tơ lụa, the, vải thuyên, vải sa, vải tơ rối v.v… Vải bông xuất hiện muộn hơn. Đến đầu CN, dân Đông Lạc Việt ở đảo Hải Nam đã sản xuất loại vải khổ to rất được ưa chuộng (theo Hậu Hán Thư). Ban Cố trong Hán Thư viết “… (Vùng Nam Việt) gần biển, có tê giác, voi, trân châu, bạc, đồng, trái cây, gấm vóc..”, “(Đảo Hải Nam) nam thì làm đồng, nữ thì dệt vải”. Trong mộ Nam Việt Vương tại Quảng Châu tìm thấy “bao vải đay”, “bó dây thừng vải đay” và nhiều “di vật bằng lụa” khác. Khảo cứu của Eberhard W. [1968: 270-277] cho thấy loại vải cát bối (sớm nhất ở Lâm Ấp), vải ngô đồng, vải câu mang, vải mộc miên và vải làm từ vỏ cây dó là đặc sản Lĩnh Nam và Vân–Quý, kết quả của tài trí tận dựng các loại chất liệu thực vật chỉ có ở địa phương. Hơn thế, kỹ thuật dùng vỏ cây dó của người Bách Việt được xem là tiền thân của nghề chế tạo giấy, mà sau này người Hán ghi công phát minh cho Thái Luân đời Tây Hán [Eberhard W. 1968: 270-275]. Đặc biệt hơn, tiểu vùng Tây Lạc Việt còn có loại vải tơ chuối, được sản xuất bằng kỹ thuật tiến bộ. Loại vải này rất phù hợp với kiểu thời tiết nóng bức của mùa hè nên rất được ưa chuộng (ghi trong Nam Châu Dị Vật Ký, Ngô Đô Phú, Nam Phương Thảo Mộc Trạng). Về sau kỹ thuật chế biến truyền rộng khắp Lĩnh Nam, đến thời Đường, nó đã trở thành vật triều cống của nhiều vùng đất như Quảng Châu, Triều Châu, Đoan Châu, Phong Châu, Hạ Châu, Tân Châu (thuộc Quảng Đông), thậm chí lên đến tận Kiến Châu vùng Ngô-Việt (ghi trong Nguyên Hòa Quận Huyện Chí). Vải trúc tuy chỉ là mặt hàng thứ cấp song cũng sớm xuất hiện trong lịch sử. Ngoài ra, cây ngô đồng cũng cung cấp lượng nguyên liệu dệt vải đáng kể.” [6] 2. Kỹ thuật dệt may: Thời kỳ văn hóa Đông Sơn, đã có những nghiên cứu chứng minh những kỹ thuật phức tạp trong dệt may trang phục: sử dụng xen kẽ các loại sợi để tạo thành các loại vải chất lượng cao, kỹ thuật thêu, kỹ thuật dệt đăng-ten (tạo khoảng trống). – Trong ngôi mộ cổ Việt Khê ở Thủy Nguyên – Hải Phòng khai quật năm 1958, và khu ngôi mộ ở xã Châu Can, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Sơn Bình (Hà Tây cũ) khai quật năm 1974 đã thu thập được nhiều loại vải khác nhau. Khu mộ ở Châu Can đã tìm được những mảnh vải của trang phục, nhiều nhất là ngôi mộ số 3 và số 6. Nhận xét bước đầu: “Những mảnh vải sợi không được se lại mà để nguyên sợi tự nhiên, sợi dọc thưa hơn sợi ngang và cách đều khoảng 2mm sợi ngang bé hơn đượt dệt dày xít nhau đều đặn”. Có những mảnh vải có đường mép dọc và ngang, điều này chứng tỏ sợi vải được dệt vòng đi vòng lại. Theo ý kiến của kĩ sư phòng kĩ thuật dệt thuộc nhà máy dệt kim Đông Xuân thì đây là loại vải sợi đay hay gai, sợi dọc to và thưa hơn sợi ngang nhưng rất đều. Chiều ngang và chiều đọc vải đều có đường biên, khổ vải hẹp, có thể vải được dệt bằng phương thức con thoi với khung cửi. Khi nói về thời đại kim khí, F. Ăng-ghen nhận xét: “Thành tựu thứ nhất là khung dệt vải, thành tựu thứ hai là việc nấu quặng và chế tác đồ kim loại”, vậy từ những mảnh vải, lụa và kĩ thuật dệt ở khu mộ Châu Can đã chứng tỏ trình độ văn minh phát triển ở thời Hùng Vương. [7] – Theo TS Nguyễn Việt, năm 2000, trung tâm tiền sử Đông Nam Á đã thu thập nghiên cứu cùng với người nước ngoài để bảo quản thành công các miếng vải cổ trong mộ thuyền Châu Can. Những mảnh vải này thực sự đã cho ta thấy rõ nét kĩ thuật dệt, cấu tạo trang trí, may cắt, các loại diềm tua và trang phục thời Đông Sơn. Qua nghiên cứu 118 miếng vải lớn nhỏ được chắt lọc ra từ 0,015m khối đất bùn vớt ra từ lòng mộ Châu Can. Những mảnh vải hiện diện rõ những phần khác nhau của trang phục. Trang phục ở mộ mà chủ nhân được chôn là một thanh niên tuổi khoảng 18 đến 20, mặc áo có diềm khâu, diềm tua. Vạt áo trang trí dệt bằng hai loại sợi hỗn hợp: sợi lanh (cannabis) và lụa (silk). Những mảnh thắt lưng ở mộ Châu Can được dệt bằng chất liệu sợi vải gai (boehmira) có bề ngang rộng khoảng 6cm. Kĩ thuật dệt vải thắt lưng đều được se theo kĩ thuật xoắn nhưng hoàn toàn khác so với kĩ thuật se xoắn S phổ biến hiện nay. Những bằng chứng đầu tiên của kĩ thuật thêu (embroidery) cũng đã tìm thấy ở trang phục trong những ngôi mộ này. [7] – Nghiên cứu hơn 1300 mảnh vải và lụa khác nhau có tuổi khoảng 2100 đến 2300 năm, bước đầu biết chúng thuộc loại sợi thân cây gai (boehmira) và lanh (cannabis). Trên một số mảnh vải gai có hiện tượng sợi dọc mất đứt đoạn tạo ra như vải dệt kiểu đăng-ten. Trong những công bố đầu tiên cho rằng do kĩ thuật dệt tạo nên vải như vậy, nhưng sau khi những mảnh vải này qua kính phóng đại cho thấy những vết lồi lõm, so le đều đặn ở phần sợi đăng-ten là dấu ấn tồn tại của những sợi dọc trước đây. [7] 3. Màu sắc của vải và trang phục: a. Theo tài liệu khảo cổ, thì có 4 màu sắc chính thể hiện trên vải cổ thời Đông Sơn: “Có thể nhận ra bốn màu sắc chính trên nền vải sợi thời Đông Sơn: Màu ngà tự nhiên của sợi vỏ cây cũng như tơ tằm (màu natural), màu xanh chàm, màu nâu gụ với những tông màu từ đậm đến tươi hồng, màu vàng nghệ óng của tơ tằm. Bốn màu trên về cơ bản vẫn được lưu truyền và ưa thích cho đến tận ngày nay trong trang phục lễ hội và hàng ngày của các dân tộc sinh sống trên đất Việt Nam.” [8] b. Theo các tài liệu dân tộc học, thì các dân tộc ưa chuộng các màu sắc sau, đều là những màu sắc cơ bản được nhuộm từ các loại lá cây tự nhiên: Màu sắc trên trang phục của các dân tộc: cơ bản nhất là màu chàm từ đậm tới nhạt, được hầu hết các dân tộc cùng nguồn gốc với người Việt ưa chuộng (nó cũng được thể hiện trên nền vải cổ Đông Sơn), sau đó là các màu sắc: trắng, đen, đỏ, hồng, vàng, nâu, xanh, cam, tím. Bạn đọc có thể tìm hiểu kỹ hơn về màu sắc cũng như kỹ thuật nhuộm tại Phần IV, Mục II.5. V. Kết luận: Những bằng chứng ở trên đã chứng tỏ nghề dệt vải của người Việt đã có tiến trình phát triển ít nhất trong hơn 4000 năm, khởi nguồn từ văn hóa Hà Mẫu Độ, kế thừa tại các văn hóa Lương Chử và Phùng Nguyên, tới thời Đông Sơn thì vải đã phát triển về số lượng và đa dạng về chất liệu. Dấu tích về những chiếc khuy áo và khóa thắt lưng cũng chứng tỏ cho sự phát triển của trang phục thời kỳ các vua Hùng của người Việt. Bằng chứng khảo cổ cũng đã chứng minh sự tồn tại của trang phục trong thời kỳ Hùng Vương, với dạng áo váy quấn tương đồng với tư liệu lịch sử đã ghi lại. Do đó vấn đề trang phục của người Việt đã rõ ràng: họ có trang phục, và trang phục được may bằng nhiều loại vải, với nhiều màu sắc khác nhau, cũng như có một tư duy rất phát triển trong thiết kế trang phục. Trong phần hai, chúng tôi sẽ tiến hành tìm kiếm và khảo sát trang phục đã từng tồn tại trong thời kỳ Hùng Vương. PHẦN II PHỤC DỰNG TRANG PHỤC THỜI KỲ HÙNG VƯƠNG I. Nhận thức cơ bản: Những khảo cứu tuần tự của chúng tôi đã chứng minh rằng người Việt thời kỳ Hùng Vương đã có nghề dệt vải rất phát triển, họ đã có trang phục, và những dấu tích quan trọng: khuy áo, khóa thắt lưng chứng tỏ cho sự phát triển trong tư duy trang phục tới độ cầu kỳ, phức tạp và hiện đại, những tác phẩm phác họa người Việt thời kỳ Hùng Vương về hình ảnh người Việt cởi trần đóng khố, không có trang phục vì thế mà hoàn toàn vô lý và không chính xác. Có thể khẳng định người Việt thời Hùng Vương đã có trang phục, không chỉ thế, mà còn đẹp và đa dạng kiểu cách. Dựa trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ tiến hành khảo cứu toàn diện về trang phục thời kỳ Hùng Vương, với cổ vật Đông Sơn được sử dụng làm cốt lõi, chọn lọc và so sánh với cổ vật Điền Việt, đối chiếu với trang phục của các dân tộc có cùng nguồn gốc với người Việt trong vùng Đông Á và Đông Nam Á, cũng như so sánh với các vùng văn hóa có liên hệ với tộc Việt. Một phương pháp nghiên cứu cẩn trọng và toàn diện sẽ giúp chúng ta tìm được trang phục thật sự của người Việt trong thời kỳ Hùng Vương. II. Cơ sở tiến hành và phương pháp thực hiện: 1. Cơ sở tiến hành: Nguồn gốc dân tộc Việt và nguồn gốc tộc Việt là vấn đề cơ bản để xác định chính xác phương pháp tiếp cận của chúng tôi trong khảo cứu trang phục thời kỳ Hùng Vương, khi chúng tôi tham khảo, tìm kiếm và đối chiếu trên diện rất rộng các dân tộc thuộc các hệ ngữ Nam Á, Nam Đảo, Tai-Kadai, Hmong-Mien trong vùng Đông Á và Đông Nam Á. Nguồn gốc từ một cộng đồng chung là cơ sở cơ bản để xác định tính liên kết trong văn hóa và trang phục của các nhóm dân có nguồn gốc từ tộc Việt. a. Nguồn gốc tộc Việt: Chúng tôi đã khảo cứu kỹ lưỡng về nguồn gốc tộc Việt và nguồn gốc dân tộc Việt Nam trong bài: Khảo cứu về nguồn gốc dân tộc Việt Nam [dẫn]. Chúng tôi sẽ đề cập qua trong bài khảo cứu này để bạn đọc hình dung cơ bản về nguồn gốc tộc Việt. Tộc Việt có nguồn gốc cư dân cổ di cư từ vùng Đông Nam Á đi lên trong thời điểm hơn 12000 năm trước do nạn biển tiến, khiến vùng sinh sống của họ là vùng đồng bằng sông Hồng nối liền với đảo Hải Nam chìm xuống biển. Nghiên cứu của Chuan Chao Wang và cộng sự năm 2013 [11] đã phát hiện một dòng di cư rất lớn từ Đông Nam Á vào thời điểm 12.000 năm trước lên vùng Động Đình, Dương Tử, dòng di cư này cũng đã đi lên cả vùng đồng bằng sông Hoàng Hà. Bản đồ thiên di của những người cha cho thấy dòng di cư lên phía Bắc từ Đông Nam Á trong thời điểm khoảng 10000 năm trước. (Gary Stix (2008). Traces of a distant past. Scientific American;299(1):56-63) Cư dân cổ gốc Đông Nam Á đã sinh sống tại vùng Động Đình, Dương Tử và bắc Đông Á, hình thành nên các văn hóa Cao Miếu, Hà Mẫu Độ, Lăng Gia Than tại vùng Động Đình, Dương Tử, và các văn hóa Hồng Sơn, Đại Vấn Khẩu, Ngưỡng Thiều tại vùng bắc Đông Á, sau đó cư dân tiền Việt đã di cư về Động Đình, Dương Tử để hình thành tộc Việt với các văn hóa Lương Chử và Thạch Gia Hà. Tới thời điểm hơn 4000 năm trước, đã xảy ra nạn hạn hán [11], khiến cư dân tộc Việt phải di cư về phía Nam. [2][12][13] b. Các cuộc di cư hình thành các dân tộc thuộc các hệ ngữ: Các dân tộc rộng lớn thuộc các hệ ngữ Nam Á, Tai-Kadai và Nam Đảo có một nguồn gốc chung từ cộng đồng tộc Việt. Họ cùng nhau xây dựng nên văn minh tộc Việt tại vùng Động Đình, Dương Tử, trước khi những biến cố xảy ra khiến cư dân tộc Việt phải di cư về Đông Nam Á lục địa, Đài Loan và vùng Đa Đảo. Đây là cơ sở chính để chúng tôi tiến hành phục dựng trang phục thời kỳ Hùng Vương. Các nghiên cứu di truyền học được công bố trong thời gian gần đây đã thể hiện dòng di cư của cư dân tộc Việt về vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo trong khoảng thời gian hơn 4000 năm trước. Nghiên cứu của Viện nghiên cứu hệ gen Việt Nam, Viện Nhân chủng và tiến hóa Max Planck Đức, Phòng thí nghiệm động lực học ngôn ngữ của Đại học Lion Pháp năm 2019 đã thể hiện người Việt có nguồn gốc chủ yếu là những người di cư từ Nam Đông Á về Việt Nam cách đây từ 2.500 – 4.000 năm trước [2]. Nghiên cứu gen của Hugh McColl và các cộng sự năm 2018 [13] (hình 9) cũng có quan điểm tương đồng với nghiên cứu của Viện hệ gen Việt Nam hợp tác với các chuyên gia Pháp, Đức. Cả hai nghiên cứu di truyền trên đều dựa trên các bộ gen cổ và các bộ gen hiện đại. Mô hình di cư ở Đông Nam Á thời tiền sử được xây dựng nên gồm 2 lớp từ châu Phi tới Đông Nam Á vào khoảng 30.000-60.000 năm trước và từ Đông Á di cư ngược về cách đây 2.500 – 4.000 năm. Các tuyến di cư chính giữa Nam Đông Á và Đông Nam Á thời cổ đại. Nghiên cứu về nhân chủng học dựa trên hình thái xương sọ năm 2019 [14] (hình 11) cũng cho thấy nhân chủng học người Việt hiện đại hình thành do dòng di cư từ 4.000 năm trước từ sông Dương Tử. Mô hình di cư hai lớp của cư dân cổ theo hình theo nhân chủng học. Các cư dân thuộc hệ ngữ Nam Á di cư về Việt Nam và Đông Nam Á lục địa, với nhóm chính đã trở về Việt Nam. Bản đồ phân bố hệ ngữ Nam Á thể hiện phân bố của cư dân trong cuộc di cư này. Bản đồ phân bố các dân tộc thuộc hệ ngữ Nam Á tại vùng Đông Nam Á lục địa và Ấn Độ. [Nguồn: Gerard Diffloth (p.c.), trích trong Handbook of East and Southeast Asian Archaeology, 2017, Junko Habu, Peter V. Lape, John W. Olsen.] Người Nam Đảo đã di cư từ vùng Động Đình, Dương Tử sang Đài Loan, sau đó mới xuống vùng Đa Đảo. Bản đồ mở rộng phạm vi của Ngữ hệ Nam Đảo. Các thời kỳ dựa trên những nghiên cứu khảo cổ học. [Dựa trên the Atlas historique des migrations by Michel Jan et al. 1999 and “The Austronesian Basic Vocabulary Database” 2008.] Cư dân thuộc hệ ngữ Tai-Kadai hình thành tại vùng miền Bắc Việt Nam hoặc Quảng Tây sau khi đất Việt chìm vào vòng Bắc thuộc, sau đó một phần đã di cư xuống vùng Đông Nam Á lục địa, một phần ở lại Nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam. Bản đồ các hướng di cư của hệ ngữ Tai-Kadai. [James R. Chamberlain, trích trong Chris Baker, From Yue To Tai, Journal of the Siam Society 90.1 & 2 (2002)] Cư dân thuộc hệ ngữ Hmong-Mien cũng có nguồn gen tương đồng với cư dân tộc Việt (Việt (Kinh), Dai). Gen người Việt và người Dai giống nhau, bên cạnh đó còn tương đồng với người Hmong thuộc hệ ngữ Hmong-Mien. [15] Đây chính là cơ sở để học giả Andréas Lommel trong tác phẩm “Tiền sử” nhận định như sau: “Tất cả miền đất mênh mông từ Thái Bình Dương trở lên đến Hoa Nam Trung Quốc đều có cùng một nền văn hóa. Đảo Bornéo ở Nam Dương (Indonesia) cũng có cùng nghệ thuật như miền sông Hoài thuộc Giang Tô miền Nam nước Ngô thời Xuân Thu Chiến Quốc. Đặc tính văn hóa gắn liền với môi trường sinh sống của thực vật và động vật từ trầu cau, cây dâu đến heo, gà, công. Các phong tục tập quán từ nhuộm răng ăn trầu, xâm mình, cà răng đến lễ hội mừng nước, đua thuyền, vai trò quan trọng của trống đồng và cồng chiêng trong các lễ hội dân gian.”. Nguồn gốc tộc Việt và các dân tộc thuộc các hệ ngữ Nam Á, Nam Đảo, Tai-Kadai cũng như sự tương đồng với hệ ngữ Hmong-Mien là cơ sở chính để chúng ta có thể qua đó tìm hiểu trang phục của người Việt trong thời kỳ Hùng Vương qua các dân tộc có một địa bàn sinh sống rộng khắp trong vùng Đông Á. c. Sự tương đồng trong nguồn gen của các nhóm dân có nguồn gốc từ cộng đồng tộc Việt giai đoạn muộn: Các dân tộc nhóm Nam Á và Nam Đảo tách ra khỏi tộc Việt kể từ thời điểm hơn 4000 năm trước, nhưng vẫn có sự giao lưu, qua lại rất thường xuyên, với biểu trưng chính là những chiếc trống đồng và đồ đồng. Sau thời điểm 4000 năm, cư dân tộc Việt vẫn tiếp tục phát triển trong vùng nam Đông Á và miền Bắc Việt Nam, sau đó được ghi lại như cộng đồng Bách Việt trong sách sử Trung Hoa. Các dân tộc có nguồn gốc từ cộng đồng tộc Việt sau thời điểm này là các dân tộc: Việt, Mường, Thái, Tày, Nùng, Choang… thuộc hai hệ ngữ Nam Á và Tai-Kadai. Sự giao lưu và hòa huyết nội tộc khiến nguồn gen tộc Việt hòa trộn đều hơn, nên gen người Việt trong giai đoạn này có phần khác với người người Nam Á và Nam Đảo di cư xuống trong hơn 4000 năm trước, đặc biệt là người Nam Đảo, họ đã hòa huyết với số đông người Australoid da đen, tuy văn hóa vẫn là tộc Việt nhưng nguồn gen đã thay đổi khá nhiều. Công trình nghiên cứu mới đây của Viện nghiên cứu hệ gen Việt Nam, Viện Nhân chủng và tiến hóa Max Planck (Đức), Phòng thí nghiệm động lực học ngôn ngữ của Đại học Lion (Pháp) năm 2019, đã cho thấy cư dân gốc tộc Việt như Kinh Việt, Tày, Nùng, Choang, Mường, Thái, Hán Hoa Nam… có hệ gen gần nhau và khác biệt so với Hán Hoa Bắc. [2] Sự tương đồng gen của các dân tộc thuộc hai hệ ngữ Nam Á và Tai-Kadai cho chúng ta thấy nguồn gốc chung của các dân tộc trong giai đoạn gần nhất trước khi tộc Việt tan rã, đây là các dân tộc gần nhất để chúng ta có thể tìm hiểu về trang phục thời kỳ Hùng Vương của dân tộc mình. d. Văn hóa Điền Việt và vấn đề nghiên cứu, tiếp cận trong tham khảo cổ vật Điền Việt: Văn hóa Điền Việt cũng thuộc tộc Việt, có cổ vật hoàn toàn tương đồng với đồ đồng Đông Sơn và các vùng tộc Việt khác, điều đó đã được chúng tôi chứng minh thông qua bài khảo cứu về cổ vật các vùng tộc Việt [dẫn], và các nghiên cứu khảo cổ xác nhận tính thống nhất của nó với văn hóa Đông Sơn: Học giả Mỹ Chiou Peng (2008 a: 34) về Điền Việt và Đông Sơn: “Những tư liệu tích lũy hơn nửa thế kỷ qua khẳng định những hiện vật tương đồng từ vùng Đông Sơn và Vân Nam thuộc về hai nền văn hóa anh em trong một vùng văn hóa của người Việt ở bán đảo Đông Dương và Tây Nam Trung Quốc”. Nhà khảo cổ học Việt Nam Chử Văn Tần (1980/2003) đã xác định một loạt các yếu tố tương đồng Điền – Đông Sơn, ngoài trống đồng còn có lưỡi cày hay cuốc hình tim, lưỡi liềm, dao gặt, bàn chải bầu dục, dao găm, kiếm ngắn, rìu lưỡi cân hoa văn hình vảy cá, muôi hình quả bầu, tên đồng mặt cắt tam giác .v.v. [16] Các cổ vật đặc trưng tộc Việt tại vùng Vân Nam của văn hóa Điền Việt. [Nguồn: Bảo tàng tỉnh Vân Nam, Bảo tàng thành phố Yuxi (Ngọc Khê), Vân Nam] Văn hóa Điền Việt theo trường phái nghệ thuật tả thực, nên trang phục được thể hiện trên cổ vật của họ khá rõ, đây là cơ sở để chúng ta đối chiếu, tìm kiếm và so sánh để tìm ra những dạng trang phục trong thời kỳ Hùng Vương. Tuy nhiên cũng cần phải làm rõ một vài vấn đề về văn hóa Điền Việt, do sự đa dạng trong bối cảnh văn hóa và lịch sử Điền thời kỳ đó, nên cần tách bạch để chúng ta nhận diện được cốt lõi văn hóa tộc Việt trong văn hóa của họ. Văn hóa của họ có văn hóa tộc Việt làm cốt lõi, cư dân đa phần cũng là cư dân tộc Việt, tuy nhiên trên phương diện trang phục, kiểu tóc, thì có sự đa dạng nhất định. Wang Ningsheng (1979, 1989) dựa trên cơ sở sự khác biệt trong trang phục, kiểu tóc đã chia các nhân vật trên các tượng đồng và đồ đồng văn hóa Điền Việt thành hai nhóm chính, trong đó tầng lớp cao nhất và chiếm số đông là quý tộc Điền, là cư dân tộc Việt, có đặc trưng trang phục: cả nam và nữ đều mặc áo chẽn thường xuyên có hoa văn dọc sọc, đi chân trần, và đeo khuyên tai lớn. Đàn ông đôi khi mặc một chiếc áo choàng với cổ áo đặc biệt bên ngoài áo chẽn của họ. Đầu của họ búi tóc hoặc búi tóc với một chiếc mấn. Đây là những đặc trưng quan trọng của tộc Việt, trong đó trang phục có thể đa dạng hơn so với đánh giá của Wang Ningsheng. [17] Kiểu đặc trưng trang phục của quý tộc Điền Việt, thuộc nhóm thứ nhất, cư dân tộc Việt tại vùng này. [17] Bên cạnh dạng trang phục này, thì quý tộc Điền Việt còn được thể hiện trong trang phục áo váy quấn, dạng áo váy quấn của họ quấn vạt phải, có phần khác với phong tục chung của tộc Việt. Dạng áo váy quấn thân sang trái được mô phỏng chi tiết hơn trên hình vẽ trên các bức tượng Điền Việt. [1,2] Nhóm thứ hai là tầng lớp bao gồm những người đã chiến đấu chống lại người Điền và những người đã bị họ chinh phục. Phụ nữ thuộc nhóm 2 có đặc điểm là để tóc hai bên, bím tóc dài xuống lưng với hai lọn tóc buông xõa khuôn mặt. Váy của họ dài, rộng và nặng; họ đeo những chiếc vòng (hình dưới). Đàn ông để tóc dài thắt bím hoặc trong hai tết lỏng lẻo. Chiếc áo dài không tay vừa vặn của họ dài đến bắp chân. [17] Hình 1: Trang phục đặc trưng của nhóm thứ hai, thuộc tầng lớp những người chiến đấu chống lại người Điền hoặc bị họ chinh phục. Hình 2: những người đàn ông trong nhóm này là tù nhân hoặc là nạn nhân của chiến tranh. Bên cạnh đó có những tượng với trang phục được thể hiện rất đa dạng, thể hiện có thể họ thuộc các dân tộc khác nhau tới cống nạp và thể hiện lòng trung thành với vua Điền. Các dân tộc khác nhau đến cống nạp, thể hiện lòng trung thành với vua Điền. [17] Qua những cơ sở xác định bối cảnh trang phục và văn hóa này, chúng tôi sẽ sử dụng những đặc điểm chung của văn hóa tộc Việt trong văn hóa Điền Việt đã được loại trừ các yếu tố ảnh hưởng hoặc tới từ bên ngoài để đối chiếu, so sánh với sử liệu, khảo cứu, cổ vật Đông Sơn để tìm được các dạng trang phục gần chính xác nhất. e. Tổng kết: Các cơ sở mà chúng tôi đã dẫn ra cụ thể ở trên, đã thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa người Việt tại miền Bắc Việt Nam từ thời văn hóa Phùng Nguyên với các văn hóa Lương Chử, Thạch Gia Hà, có thể khẳng định người Việt tại Việt Nam là hậu duệ của các cư dân từ vùng Động Đình, Dương Tử (vốn có nguồn gốc từ Việt Nam và Đông Nam Á di cư lên), đây là cơ sở để tham khảo cổ vật và trang phục của các văn hóa này trong phạm vi hạn chế, do thời gian đã cách nhau khá xa, nên chúng tôi sẽ lựa chọn những cổ vật ít có khả năng thay đổi nhất để kết hợp phục dựng với trang phục thời Đông Sơn, trang phục thời kỳ Lương Chử cũng chỉ được sử dụng để đối chiếu và so sánh với thư tịch lịch sử. Cư dân của các văn hóa Lương Chử, Thạch Gia Hà, vào thời điểm hơn 4000 năm trước đã di cư về Lĩnh Nam, Việt Nam và Đông Nam Á, thời điểm đó đa phần là cư dân của hai hệ ngữ lớn: Nam Á như các dân tộc Tây Nguyên, Khmer, Khơ Mú… và các dân tộc tại vùng Nam Đảo, các dân tộc này đã tách ra tộc Việt từ thời điểm đó, cũng như có sự giao thoa, hòa huyết với người Ấn Độ và người Australoid da đen, nên việc tham khảo trang phục của họ cũng cần đối chiếu và so sánh cẩn thận, do đã có sự thay đổi nhất định trong phong cách trang phục. Sau thời điểm 4000 năm, thì các cư dân tộc Việt vẫn tiếp tục phát triển trong một cộng đồng chung tại vùng Nam Dương Tử tới miền Bắc Việt Nam, cho tới khi tộc Việt tan rã do bước chân xâm lược của người Hoa Hạ vào thời Sở-Tần-Hán, đã hình thành các dân tộc thuộc hai hệ ngữ Nam Á như Việt, Mường, và Tai-Kadai như Thái, Tày, Nùng, Choang, Dai… Bên cạnh đó là các dân tộc thuộc hệ ngữ Hmong-Mien như Hmong, Dao. Đây là các dân tộc gần nhất với tộc Việt, nên có thể làm cơ sở gần hơn để đối chiếu với cổ vật và sử liệu về trang phục thời kỳ Hùng Vương. 2. Phương pháp thực hiện: Dựa trên cơ sở nghiên cứu di truyền, khảo cổ và ngôn ngữ về nguồn gốc chung của các cư dân tộc Việt, cùng với khảo sát về văn hóa tộc Việt trong văn hóa Điền Việt ở trên, chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu toàn diện để tìm hiểu về trang phục thời kỳ Hùng Vương theo hướng đi như sau: lấy cổ vật Đông Sơn, thư tịch lịch sử, khảo cứu của các nhà nghiên cứu văn hóa làm nền tảng, rồi tới tìm kiếm, so sánh các cổ vật văn hóa Điền Việt, tiếp theo đó là đối chiếu, so sánh với các dân tộc có nguồn gốc từ cộng đồng tộc Việt ở vùng nam Đông Á và miền Bắc Việt Nam theo các thứ tự ưu tiên mà chúng tôi đã đề cập tới ở phần trên, sử dụng một phần cổ vật về trang phục tại các văn hóa Lương Chử, Thạch Gia Hà, sau đó mới tìm kiếm các dạng trang phục tương đồng với thư tịch lịch sử ở những nơi có liên hệ với tộc Việt. Các vùng có liên hệ với tộc Việt bao gồm vùng châu Mỹ và Bhutan, chúng tôi sẽ tham khảo các dân tộc này trên cơ sở đối chiếu với thư tịch lịch sử để tìm dạng trang phục gần nhất. Việc đối chiếu này không có ý nghĩa khẳng định các dạng trang phục đó là của người Việt, chỉ có thể nói đó là các dạng trang phục tương đồng với trang phục của tộc Việt, chúng ta dựa vào đó để tìm hình dáng gần nhất với trang phục thời kỳ Hùng Vương. Từ hướng đi này, chúng tôi sẽ tiến hành tìm lại trang phục thời kỳ Hùng Vương của dân tộc Việt. III. Tiến hành phục dựng: A. Khảo sát về các dạng trang phục và một vài vấn đề về trang phục thời Hùng Vương: 1. Khảo sát về các dạng trang phục thời Hùng Vương: Trang phục thời kỳ văn hóa Đông Sơn có thể bao gồm cả dạng áo váy, và dạng áo – quần, trong đó dạng áo váy chiếm thế chủ đạo trong trang phục của người Việt, dành cho cả nam và nữ, theo như thư tịch lịch sử đã ghi lại: “Người Việt vùng Lĩnh Nam, đặc biệt là Tây Lạc Việt, thường ngày vẫn mặc áo và váy (theo Hậu Hán Thư, Đông Di Truyện) (áo váy quấn và váy chui đầu), cũng giống như câu ca dao Việt Nam: “Cái thúng mà thủng hai đầu, bên ta thì có bên Tàu thì không”.” [6] Chúng tôi cũng nhận thấy có cơ sở để cho rằng thời kỳ văn hóa Đông Sơn đã có thể có cả dạng trang phục quần. [Xem thêm ở phần Θ Khảo về trang phục quần ở cuối bài khảo cứu] Dựa trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ đi tìm các dạng trang phục tồn tại trong đời sống người Việt, cả hai dạng áo váy và áo quần. ◊ Áo váy quấn vạt áo sang trái (tả nhậm) Sử liệu có ghi lại về việc mặc áo, vạt áo cài sang trái (tả nhậm) của người Việt: “Về phong cách phục trang, cư dân Hoa Hạ mặc vạt áo quấn sang phải, người Bách Việt cài sang trái (tả nhậm). Cuốn Sử Ký viết “Phu (Triệu Đà) cắt tóc xăm mình, mặc áo quấn thân áo sang trái, giống như dân (Âu) Việt vậy”(67). “Tả nhậm” là cách phục trang chung của cư dân Bách Việt.” [6] ◊ Áo hai tà: Những hình ảnh trên trống đồng cũng cho ta một cơ sở về loại áo hai tà cho cả nam và nữ giới, sử dụng cho nhiều đối tượng và mục đích. Dạng áo váy xuông cho cả nam và nữ giới: Trên trống đồng Đông Sơn cũng thể hiện dạng áo váy xuông dành cho cả nam và nữ giới. Áo chui đầu kiểu Poncho: “Cổ sử Trung Hoa như Bác Vật Chí, Dị Vật Chí và Tam Tài Đồ Hội (三才图会, đời Minh), từng nhắc đến khái niệm “dân khoan ngực (穿胸民)”, theo khảo cứu của Eberhard W. [1968: 360-361], đó chính là hình ảnh chiếc áo choàng đầu kiểu poncho đặc trưng của người Việt cổ vùng Dương Tử. Theo tác giả, cư dân Bắc Bộ Việt Nam thời Đường cũng rất chuộng loại áo này.” [6] ◊ Váy xòe xếp ly: Trên thạp Hợp Minh có thể hiện một dạng váy có thể là dạng váy xòe xếp ly. Áo lông chim: Theo khảo cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Thơ, chúng ta cần để ý đến một loại trang phục rất quan trọng để biểu trưng cho quyền lực của người Việt, áo lông chim, áo này đi cùng với văn hoá tôn thờ và xem trọng loài chim của người Việt xưa. Loại áo này có thể được dùng cho cả các vị vua Hùng và quý tộc. “Ngoài các sản phẩm đồ dệt nói trên, áo lông chim cũng là một sản vật đặc trưng Bách Việt. Các cuốn Lĩnh Biểu Kỷ Man, Xích Nhã, Việt Tây Tùng Tải và Lĩnh Ngoại Đại Đáp có dẫn các thủ lĩnh (hoặc vua) các bộ tộc Âu Việt, Lạc Việt và Lâm Ấp thường mặc áo lông thiên nga (hoặc lông chim). Người Hán gọi kiểu áo đó là “điểu y” (鸟衣), gọi cộng đồng mặc áo lông chim là Điểu Di (鸟夷). Áo lông chim gắn liền với tục thờ chim của cư dân địa phương. Hình ảnh “vũ nhân”, “điểu nhân” trên mặt trống đồng hay các sản phẩm có chạm khắc hoa văn Đông Sơn – Điền Việt phản ánh đầy đủ nhận định này.” [6] ◊ Áo lông ngỗng: Theo khảo cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Thơ và Bùi Thiết, thì các cư dân Việt Lĩnh Nam đã sử dụng lông ngỗng làm chất liệu may mặc, có thể là áo khoác lông ngỗng như truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy đã ghi lại. “Ngoài chất liệu thực vật, cư dân trong vùng còn sử dụng lông ngỗng làm chất liệu may mặc. Cuốn Lĩnh Nam Di Vật có chép rằng các tù trưởng các đạo phương Nam thường lấy lông ngỗng dệt làm áo ấm [Bùi Thiết 1999: 191-192]” [6] ◊ Áo khoác vải: Dạng áo khoác vải có dây buộc là một dạng áo phổ thông, được sử dụng trong nhiều nền văn hóa, cũng có thể được sử dụng trong đời sống của người Việt xưa, dành cho cả nam và nữ. 2. Trang phục thời Hùng Vương trong thời Bắc thuộc: Truyền thống trang phục của người Việt có từ thời Hùng Vương được duy trì tới thời điểm nào? Chúng tôi tìm thấy một dấu tích lịch sử quan trọng được ghi lại, chứng tỏ cho sự tồn tại lâu bền của phong tục trang phục Việt trong thời Hán thuộc: Trong sách Tam Quốc Chí, phần Ngô chí có ghi lại: Thế kỷ III SCN, Thái thú Tiết Tông trong tờ sớ xin chọn Thứ sử Giao Châu đã miêu tả người Việt: “tóc búi, chân trần, áo vạt trái”.” Phong tục mặc áo quấn thân sang trái của người Việt còn được duy trì tới ít nhất tới TK III SCN. Điều này cũng có nghĩa trang phục người Việt tới lúc đó vẫn cơ bản giữ nguyên truyền thống từ trước thời Hán thuộc của mình. Do đó chúng ta khi phục dựng trang phục thời hai Bà Trưng, cho tới thời Bà Triệu, hay sau đó, cũng có thể sử dụng trang phục thời Hùng Vương để phục dựng lại. 3. Khố và trang phục thời kỳ Hùng Vương: Trang phục dạng khố là một dạng trang phục tồn tại trong hệ thống trang phục của người Việt thời kỳ Hùng Vương, có ý kiến đề cập đến khái niệm “văn minh” và “không văn minh” đối với dạng trang phục khố để xác định vai trò của nó trong đời sống của người Việt. Vậy khố chính xác được sử dụng trong các hoạt động nào trong đời sống của người Việt? Các tư liệu của văn hóa Điền Việt, qua sự khảo sát cơ bản của chúng tôi ở phần trên sẽ là cơ sở để chúng ta xác định chính xác được khố đóng vai trò như thế nào trong đời sống của người Việt. Trong các bức tượng của văn hóa Điền Việt, qua sự khảo sát rất rộng cổ vật của họ, chúng tôi hầu như không tìm thấy dấu vết của sự tồn tại trang phục dạng khố trong các hoạt động của họ, bao gồm cả tâm linh, di chuyển và đời sống thường nhật. Kiểu đặc trưng trang phục của quý tộc Điền Việt, qua sự khảo cứu của chúng tôi ở phần trên thì là tầng lớp cao nhất của vùng này, là cư dân tộc Việt. [17] Trang phục chính và thường ngày của người Điền Việt là dạng áo váy liền, cùng với đó là áo choàng vải hoặc lông vũ, dạng trang phục này cũng gần tương đồng với trang phục của người Việt. Hầu như không tìm thấy dạng trang phục khố trong đời sống của người Điền Việt. Bên cạnh đó còn một vấn đề nữa, đó là trang phục của các hình họa trên trống đồng, có nhiều người cho rằng trang phục trên trống đồng là chiếc khố. Vậy chính xác những hình ảnh trên trống đồng là dạng trang phục như thế nào? Hình họa được thể hiện trên trống đồng Đông Sơn. [Nguồn: Nguyễn Văn Huyên, Những trống đồng Đông Sơn phát hiện ở Việt Nam] Đầu tiên chúng ta cần xác định chính xác vai trò của những hình họa trên trống đồng: đây là những hình ảnh thể hiện hoạt động tâm linh, do trống đồng là vật thờ trời, nên các hình họa đều được thể hiện với mục đích tế trời, cũng như thờ cúng Tổ Tiên, thờ núi sông. Đây là cơ sở đầu tiên để chúng ta nhìn nhận chính xác về trang phục trong lễ tế, nó yêu cầu sự trang trọng và kín đáo trong trang phục, tương tự như chúng ta ngày nay không được phép ăn mặc hở hang tới các địa điểm tâm linh. Hoạt động tâm linh của người Việt có vai trò rất quan trọng, có thể nói chiếm vai trò chủ đạo trong đời sống của cư dân tộc Việt, do đó các hoạt động này cần có sự nghiêm chỉnh trong trang phục. Tư duy trang phục của người Việt cũng đã rất phát triển, các dạng trang phục đều thể hiện tính triết lý nhất định, đặc biệt là dạng trang phục đi cùng hai tà, nên việc cho rằng người Việt sử dụng chiếc khố trong lễ tế là chưa hợp lý về mặt logic. Hoạt động tâm linh của người Điền Việt cũng đã thể hiện dạng trang phục rất kín đáo. Quan sát kỹ hình họa trống đồng, chúng ta sẽ thấy được hai tà rất dài và rộng, cũng như nối liền với thân và tách từ phần thân dưới, nên nó khó có khả năng là một chiếc khố, phần chân cũng hoàn toàn có khả năng là một chiếc quần, chứ không phải chân trần. Dạng trang phục này khá tương đồng với trang phục sử dụng trong điệu Hoàng Vũ của người Miêu trên đảo Hải Nam, cũng sử dụng áo hai tà và quần. Điệu Hoàng Vũ của người Miêu trên đảo Hải Nam. Như vậy trang phục khố chỉ có thể đóng vai trò trong hoạt động lao động, thể thao hoặc sử dụng như một dạng đồ lót mặc trong trang phục. Trang phục khố ít có khả năng được sử dụng trong hoạt động tâm linh được mô tả trên các hình họa trống đồng, cũng như không đóng vai trò chính trong hệ thống trang phục của người Việt. B. Tiến hành phục dựng trang phục: 1. Trang phục của vua Hùng, thủ lĩnh và quý tộc thời Hùng Vương: 1.1. Trang phục cơ bản của các tầng lớp quý tộc thời Hùng Vương: Đối tượng tham khảo chính: – Những bức tượng trên cán dao găm đồng Đông Sơn: Các bức tượng trên các cán dao găm là nữ giới được thể hiện trang phục rất rõ ràng, vì vậy đây sẽ là cơ sở chính để chúng tôi tìm lại trang phục của quý tộc nữ: – Trang phục của quý tộc của văn hóa Lương Chử: Trang phục thời văn hoá Lương Chử, được các nhà nghiên cứu Trung Quốc phục dựng từ một ngôi mộ vị quý tộc của thời kỳ văn hoá này, là nguồn tham khảo đáng giá cho chúng ta để tìm lại trang phục nam thời văn hoá Đông Sơn, với dạng váy quấn, đầu đội mũ lông chim, cổ đeo vòng nhiều lớp, tay đeo vòng. Đây là những đặc điểm trang phục cơ bản được bảo lưu về thời kỳ văn hoá sau như từ Phùng Nguyên tới Đông Sơn. [Nguồn: dẫn] Trang phục của các vua Hùng, thủ lĩnh và quý tộc cả nam và nữ thời Hùng Vương đều cùng một dạng cơ bản như thế này, từ kết cấu trang phục này, các hoa văn, chi tiết trang trí, chất liệu sẽ được sử dụng để phân định địa vị của người mặc chúng. a. Bộ trang phục của quý tộc nữ: ◊ Kết cấu trang phục cơ bản: Trang phục cơ bản của quý tộc nữ thời kỳ này là áo cùng với váy quấn, áo có thể là dài tay hoặc ngắn tay, váy được quấn quanh thân mình. Nhiều dân tộc Đông Á và Đông Nam Á còn thể hiện một dạng áo váy tương tự như vậy. Dạng áo váy của người Việt có thể có màu sắc cùng với hoa văn áo và chân váy đồng nhất với nhau, chứ không khác màu và đơn điệu như các dân tộc Mường, Thái. Cổ áo cũng có thể xẻ nhẹ tương tự như bức tượng gỗ Điền Việt thứ hai. – Sử dụng cạp váy quấn quanh bụng như các dân tộc Mường, Thái. Trước váy được trang trí với một đoạn vải rời (xế) như trang phục của người Hmong. Vải trước váy, hay xế trong trang phục của người Hmong. Ở bụng của họ cũng quấn một lớp cạp váy, kết cấu trang phục này khá tương đồng với bức tượng trên cán dao găm Đông Sơn. Dạng trang phục này rất tương đồng với các dạng trang phục của người Lê, người Bana, cũng như người Bhutan. Màu sắc và hoa văn trên áo và váy là thống nhất với nhau tương tự như trang phục của người Lê. Cách quấn váy chúng ta có thể tham khảo cách quấn Kira của người Bhutan ở hình ảnh cuối cùng. Trang phục của người Việt khác với các dân tộc là có đoạn vải rời (xế), cũng như có cạp váy quấn quanh bụng. Dạng áo cùng váy quấn của người Lê, người Bana, người Bhutan. Tranh phục dựng của bạn lilsuki khá gần với trang phục của quý tộc nữ thời kỳ Hùng Vương được khắc họa trên các cán dao găm bằng đồng Đông Sơn: Bộ phụ kiện: – Đầu búi tóc hoặc đội khăn tròn đội đầu. – Tai đeo khuyên tròn bằng ngọc hoặc đá mã não. [Xem thêm Phần III, mục I.9. Các dạng khuyên tai cho quý tộc và thường dân] – Cổ đeo những chiếc vòng mã não, ngọc… tương tự như trong các nền văn hoá cổ xa xưa, gốc rễ của Đông Sơn như Lương Chử, Thạch Gia Hà. Vòng được thiết kế thành nhiều lớp dài ngắn nối tiếp nhau (có thể là 3 lớp), tương tự như cách đeo trang sức của thời văn hóa Lương Chử. [Xem thêm phần III mục I.8. Các loại vòng cổ dành cho nam và nữ giới quý tộc] So sánh trang phục thủ lĩnh nam Lương Chử với tượng nữ thời Đông Sơn (dạng vòng cổ nhiều lớp này có thể được sử dụng cho cả nam và nữ) b. Bộ trang phục của quý tộc nam: ◊ Kết cấu trang phục cơ bản: Dạng trang phục của quý tộc nam thời kỳ Hùng Vương, là dạng áo váy quấn, thân áo được quấn sang trái (tả nhậm), như mô tả lại của Tư Mã Thiên trong tác phẩm Sử Ký của mình: “Phu (Triệu Đà) cắt tóc xâm mình, mặc áo quấn thân áo sang trái, giống như dân (Âu) Việt vậy”. (Sử ký Tư Mã Thiên, Nam Việt Uý Đà Liệt Truyện, bản dịch của Nhữ Thành) Tài liệu khảo cổ về văn hóa Đông Sơn cũng ghi lại một dạng áo với vạt áo được trang trí, cùng mảnh thắt lưng, chứng tỏ đây là một dạng áo váy quấn, có kết cấu tương đồng với dạng áo được mô tả trong Sử Ký như chúng tôi tìm lại dưới đây. “Trong mộ thuyền Châu Can được khai quật, những mảnh vải hiện diện rõ những phần khác nhau của trang phục. Trang phục ở mộ mà chủ nhân được chôn là một thanh niên tuổi khoảng 18 đến 20, mặc áo có diềm khâu, diềm tua. Vạt áo trang trí dệt bằng hai loại sợi hỗn hợp: sợi lanh (cannabis) và lụa (silk). Những mảnh thắt lưng ở mộ Châu Can được dệt bằng chất liệu sợi vải gai (boehmira) có bề ngang rộng khoảng 6cm.” [7] Hình vẽ trang phục dạng áo váy quấn trên trống đồng Động Xá. Dạng áo này được thể hiện rõ ràng trong tranh phục dựng trang phục thủ lĩnh nam thời Lương Chử, loại trang phục này tồn tại rất lâu về sau này ở các dân tộc khắp vùng Đông Á. Với người Việt, thì hoa văn, màu sắc cũng như chất liệu có thể là quy chuẩn cho vị thế của người mặc. Trang phục quý tộc Lương Chử. [Nguồn: dẫn] Dạng áo váy quấn của người Việt là áo dài tay, chân váy có thể dài tới quá nửa đầu gối, chứ không ngắn như tranh phục dựng thời văn hóa Lương Chử. Thân áo cũng được quấn theo hướng ngược lại so với tranh phục dựng, tức tả nhậm (quấn thân sang trái). Thử so sánh với trang phục của người Bhutan, thì chúng tôi nhận thấy dạng áo váy quấn này hoàn toàn tương đồng với áo Gho. Dạng áo váy quấn (kiểu giao lĩnh) là trang phục của nhiều dân tộc khắp vùng Đông Á, Bhutan cũng là vùng thuộc văn hóa Đông Á cổ xưa, có nhiều đặc điểm của văn hóa Đông Á, kiểu trang phục của họ có thể mang dấu ấn từ xa xưa. Chúng ta có thể tham khảo trực tiếp kiểu dáng áo của họ, và sử dụng màu sắc và hoa văn Việt mà chúng tôi liệt kê ở phần IV để trang trí và thiết kế. Cả hai dạng áo váy quấn dành cho nam, và áo váy dành cho quý tộc nữ mà chúng tôi tìm lại ở trên đều khá tương đồng với bộ đôi áo váy dành cho quý tộc nam (Gho) và nữ (Kira) của người Bhutan. Bộ phụ kiện: – Đầu đội băng đô hoặc búi tó. – Đối với nam giới cũng có những chiếc vòng mã não, ngọc nhiều lớp như đối với nữ. [Xem thêm phần III mục I.8. Các loại vòng cổ dành cho nam và nữ giới quý tộc] – Tai cũng đeo khuyên tròn tương tự như nữ giới. [Xem thêm phần III mục I.9. Các dạng khuyên tai cho quý tộc và thường dân] – Bụng đeo thắt lưng, khóa thắt lưng được sử dụng cùng với vải để cố định thân áo. Những chiếc khóa thắt lưng có thể được dành riêng cho quý tộc nam. [Xem thêm phần III mục I.10. Khóa thắt lưng và gài đai lưng dành cho quý tộc và thường dân] ◊ Trang phục của các vị vua Hùng: Với các vị vua Hùng, họ cũng sử dụng dạng áo váy quấn thân sang trái như chúng tôi đã tìm lại ở trên, tuy nhiên dạng áo của họ sẽ cầu kỳ, phức tạp hơn, được may bằng loại vải tốt nhất, cũng như có thể rộng và dài hơn so với trang phục quý tộc, ống tay và thân váy rộng hơn, chân váy có thể dài chấm đất, như vậy sẽ thể hiện được tính quyền uy của các vị. Trang phục của vua Hùng cũng sử dụng những chiếc khóa thắt lưng với độ tinh xảo cao hơn so với của quý tộc. Đây có thể là chiếc thắt lưng dành riêng cho các vị vua Hùng, bởi sự khác biệt và tinh xảo của nó so với tất cả các loại khóa thắt lưng khác đã tìm thấy được. [Nguồn: Bảo tàng Barbier-Mueller] Trang phục của thủ lĩnh Lương Chử được bảo tàng tỉnh Chiết Giang phục dựng có thể là một nguồn tham khảo cho chúng ta về trang phục của các vị vua Hùng, với mũ lông chim và áo váy quấn vạt trái. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. 1.2. Áo choàng lông chim và lông vũ dành cho vua, hoàng tộc và thủ lĩnh vùng: Vua, hoàng tộc hay thủ lĩnh vùng cũng sử dụng những dạng trang phục của quý tộc nam và quý tộc nữ như chúng tôi đã tìm lại ở trên, với sự khác biệt trong thiết kế, chất liệu cũng như hoa văn và màu sắc, bên cạnh đó, có thể họ còn có dạng áo để thể hiện tính quyền lực của mình: những chiếc áo choàng lông chim và lông vũ. Cả hai dạng áo này trong thư tịch lịch sử được ghi lại dành cho những người thuộc tầng lớp cao trong xã hội. Với nam giới, thì dạng áo lông chim được ghi lại sử dụng cho vua hoặc thủ lĩnh vùng ở khắp vùng Hoa Nam và Việt Nam, trong địa bàn của quốc gia Văn Lang: “Các cuốn Lĩnh Biểu Kỷ Man, Xích Nhã, Việt Tây Tùng Tải và Lĩnh Ngoại Đại Đáp có dẫn các thủ lĩnh (hoặc vua) các bộ tộc Âu Việt, Lạc Việt và Lâm Ấp thường mặc áo lông thiên nga (hoặc lông chim).” [6] Còn đối với nữ giới, thì dạng áo lông ngỗng được ghi lại như một dạng trang phục của Mị Châu, một Mị Nương (hoàng tộc) của thời An Dương Vương. Dạng áo này rất cầu kỳ và phức tạp trong may mặc, yêu cầu nhiều thời gian, công phu cũng như nguyên liệu, nên chúng chỉ dành cho một số đối tượng hãn hữu, là các tầng lớp cao nhất trong xã hội. a. Áo choàng lông chim dành cho vua, hoàng tộc và thủ lĩnh nam: Đối với các vị vua, thủ lĩnh nam giới, thì họ sử dụng những chiếc áo choàng lông chim, với vai trò thể hiện địa vị, do tính cầu kỳ và phức tạp trong thiết kế và may mặc của nó. Dạng áo này đã được ghi nhận trong thư tịch lịch sử, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống người Việt. Ở vùng Đông Á chúng tôi hầu như không tìm thấy dấu tích của chúng, nhưng thật may mắn là người bản địa Hawaii còn lưu giữ loại áo khoác lông chim này. Các dạng áo khoác lông chim của người Hawaii và cách sử dụng trong thực tế. [Nguồn: tổng hợp qua công cụ tìm kiếm hình ảnh của Google] Người Việt và người Polynesian liên hệ với nhau như thế nào? Các nghiên cứu di truyền đã chứng minh về một phần nguồn gốc tộc Việt của người Polynesian, họ di cư từ vùng Động Đình, Dương Tử sang Đài Loan sau đó xuống vùng Đa Đảo [18][19], bao gồm cả đảo Hawaii, cư dân tại đây có phong tục tương đồng với tộc Việt, như việc ăn trầu. Sự liên hệ của người Việt và người Polynesian còn được thể hiện qua nghiên cứu gen của loài heo, theo nghiên cứu này, thì loài heo tại Hawaii có nguồn gốc trực tiếp từ miền Bắc Việt Nam [20], chứng tỏ sự giao thương và trao đổi giữa hai vùng trong thời kỳ sau thời điểm 4000 năm. Văn hóa Đông Sơn cũng ảnh hưởng tới vùng Đa Đảo với biểu hiện là trống đồng và các di vật bằng đồng có phong cách Đông Sơn. Do đó, chúng ta có thể tham khảo kiểu dáng áo của người Polynesian bản địa Hawaii để phục dựng lại dạng áo lông ngỗng và lông chim của tộc Việt. Dạng lông, dạng màu sắc của loại áo lông chim của người Việt có thể sử dụng lông các loài chim bản địa Việt Nam và Hoa Nam có màu sắc đẹp. Loại áo này có thể được sử dụng cho mùa đông, có đồng thời hai chức năng: biểu tượng quyền lực và giữ ấm. Chúng tôi còn tìm được cách thức chi tiết làm loại áo này, bạn đọc có thể xem ở đây. b. Áo choàng lông ngỗng, lông thiên nga dành cho hoàng tộc, thủ lĩnh nữ: Đối với hoàng tộc, thủ lĩnh nữ, thì áo choàng lông ngỗng hoặc lông thiên nga được họ sử dụng để thể hiện tính quyền lực của mình. Dạng áo này được ghi lại trong truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy, cũng như trong thư tịch lịch sử như một dạng áo dành cho hoàng tộc. Dạng áo này cũng không còn dấu tích ở vùng Hoa Nam và Đông Nam Á, nhưng thật may mắn vì người Hawaii ngoài việc có dạng áo lông chim, họ còn có cả dạng áo choàng sử dụng lông ngỗng. Chiếc áo lông ngỗng này được một nghệ nhân Hawaii có tên Boris Huang phục dựng lại, kiểu dáng gần tương tự dạng áo choàng lông chim, nhưng thay vào vì sử dụng lông chim thì tác giả sử dụng lông ngỗng, tạo thành một chiếc áo choàng với màu sắc thuần trắng rất đẹp và phù hợp với nữ giới. 1.3. Dạng áo choàng vải dành cho thủ lĩnh, quý tộc nam và nữ: Bên cạnh những dạng trang phục chính mà chúng tôi đã tìm lại ở trên, thì trong trang phục của người Việt còn có thể tồn tại dạng áo choàng vải, được choàng bên ngoài trang phục chính, sử dụng cho các tầng lớp từ hoàng tộc, thủ lĩnh cho tới quý tộc. Cách thiết kế, màu sắc, chất liệu và hoa văn trang trí giữa các tầng lớp sẽ có sự khác biệt. Chúng tôi có tìm thấy một dạng áo choàng vải của người Mông Njua tại Lào, dạng áo choàng vải này cũng có kết cấu tương đồng với dạng áo choàng lông vũ ở trên, sự khác biệt ở chất liệu và họa tiết, áo choàng vải sử dụng chất liệu vải, và trên áo sẽ được thiết kế họa tiết, may thêu nhiều kiểu dáng cầu kỳ hơn. Áo choàng vải của người Mông Njua, được gọi là “tia”. [Nguồn: Robyn Maxwell, 2003, Textiles of Southeast Asia: tradition, trade, and transformation.] Từ kết cấu áo choàng vải cơ bản này, áo sẽ được thiết kế các họa tiết khác nhau cho nam và nữ, các kiểu áo choàng vải trên trang phục của người Điền Việt là một gợi ý cho cách trang trí họa tiết trên áo choàng vải. Áo choàng vải dành cho thủ lĩnh, quý tộc nữ: Với quý tộc nữ, thì dạng áo choàng vải được thể hiện khá rõ ràng trên tượng đồng Điền Việt, với áo được choàng bên ngoài trang phục, có dây buộc trước cổ, cũng như được trang trí bằng hoa văn các loài vật: Phượng, Hươu…, chứng tỏ đây là dạng áo dành cho tầng lớp cao trong xã hội. Với dạng áo của người Việt, cũng có thể sử dụng các vật tổ như Rồng – Phượng, hay hình tượng mặt trời để thiết kế trên áo để biểu trưng cho hoàng tộc và quý tộc. Áo choàng vải dành cho thủ lĩnh, quý tộc nam: Đối với thủ lĩnh, quý tộc nam, thì dạng áo cũng cơ bản tương đồng với áo choàng của thủ lĩnh, quý tộc nữ, được thể hiện khá rõ ràng trên tượng đồng Điền Việt. Dạng áo này cũng có dây buộc trước cổ, choàng bên ngoài trang phục chính. Dạng áo choàng vải cũng được các nhà nghiên cứu Trung Quốc phục dựng lại, chúng ta có thể tham khảo được kiểu dáng và cách thức trang trí được thể hiện trong tranh phục dựng: 2. Các dạng trang phục khác trong đời sống của người Việt: 2.1. Các dạng trang phục dành cho thường dân: a. Dạng áo váy quấn với hoa văn đơn giản dành cho nam giới: Bên cạnh dạng áo váy quấn với hoa văn, chất liệu cao cấp hơn dành cho quý tộc, thì kiểu áo váy quấn cũng được dành cho cả thường dân, với hoa văn đơn giản hơn hoặc không có hoa văn, khi nó được ghi lại như một đặc trưng của người Việt. Trong sách Tam Quốc Chí, phần Ngô chí có ghi về phong tục trang phục của người Việt: “tóc búi, chân trần, áo vạt trái”.” 2. Các dạng trang phục khác trong đời sống của người Việt: 2.1. Các dạng trang phục dành cho thường dân: a. Dạng áo váy quấn với hoa văn đơn giản dành cho nam giới: Bên cạnh dạng áo váy quấn với hoa văn, chất liệu cao cấp hơn dành cho quý tộc, thì kiểu áo váy quấn cũng được dành cho cả thường dân, với hoa văn đơn giản hơn hoặc không có hoa văn, khi nó được ghi lại như một đặc trưng của người Việt. Trong sách Tam Quốc Chí, phần Ngô chí có ghi về phong tục trang phục của người Việt: “tóc búi, chân trần, áo vạt trái”.” Dạng áo váy quấn thân sang trái được mô phỏng chi tiết hơn trên hình vẽ trên các bức tượng Điền Việt. [1,2] Dạng áo váy quấn thân sang trái được mô phỏng chi tiết hơn trên hình vẽ trên các bức tượng Điền Việt. [1,2] b. Dạng áo váy xuông đơn giản cho thường dân: Bên cạnh dạng trang phục áo váy quấn, thì còn có dạng áo váy xuông đơn giản, cũng dành cho dân thường, với thân liền váy, có thể có hoặc không thắt dây vải quanh bụng. Đây là dạng áo váy có thể được sử dụng cho cả nam và nữ giới, được thể hiện rõ ràng trên trống đồng Đông Sơn và Điền Việt, và cũng được ghi lại trong thư tịch lịch sử: “Người Việt vùng Lĩnh Nam, đặc biệt là Tây Lạc Việt, thường ngày vẫn mặc áo và váy (theo Hậu Hán Thư, Đông Di Truyện) (áo váy quấn và váy chui đầu), cũng giống như câu ca dao Việt Nam: “Cái thúng mà thủng hai đầu, bên ta thì có bên Tàu thì không”.” [6] Dạng váy xuông trên trống đồng Đông Sơn. [Nguồn: Những trống đồng Đông Sơn phát hiện ở Việt Nam – Nguyễn Văn Huyên] Theo hình vẽ trên cả hai trống đồng Điền Việt và Đông Sơn, thì đây là dạng váy dành cho cả nam và nữ, có kích thước nhỏ hơn dạng áo váy trùm cho quý tộc, với nam giới có thể sử dụng cùng dây lưng, còn với nữ giới có thể sử dụng cùng cạp váy. Đây là một dạng áo phổ thông, cùng một dạng với loại áo trùm cho quý tộc chúng tôi tìm lại ở phía dưới. Dạng áo váy xuông của người Điền được phục dựng lại bởi các nhà nghiên cứu Trung Quốc: c. Dạng áo hai tà cho nữ giới: Dạng áo hai tà cũng là một đặc trưng của người Việt, khi dạng áo này được sử dụng cho nhiều đối tượng mà mục đích, dành cho cả nam và nữ. Trên rìu đồng Đông Sơn cũng thể hiện hình ảnh một gia đình bao gồm cha, mẹ và con cái đều mặc dạng áo hai tà, cũng như hình ảnh nữ giới mặc chiếc áo hai tà được thể hiện trên hoa văn Đông Sơn. Áo hai tà được thể hiện cho cả nam và nữ trên rìu đồng, cũng như cho riêng nữ trên hình họa trống đồng. [1. Hoa Văn Việt Nam – Nguyễn Du Chi; 2. Những trống đồng Đông Sơn phát hiện ở Việt Nam – Nguyễn Văn Huyên] Dạng áo váy hai tà này có cùng ý nghĩa và ý tưởng thiết kế với áo váy của nữ quý tộc, với lớp xế ở phía trước váy. Dạng áo váy hai tà cũng như có xế là rất phổ biến trong các dân tộc được chúng tôi khảo cứu. Dạng áo hai tà của người Việt xưa có thể được cài khuy và bố trí hoa văn trang trí bên vai trái (tả nhậm), với những chiếc khuy đồng. Áo bao gồm hai lớp, áo váy bên trong, và áo hai tà bên ngoài, tà váy có thể dài bằng hoặc quá lớp váy bên trong. Dạng áo hai tà của người Paiwan. Dạng áo váy hai tà cũng tồn tại trong trang phục của người Dao Tiền. Họ còn cải biến hơn với việc sử dụng khá nhiều tà áo. Trang phục của người Dao Tiền khá tương đồng với cả hai dạng áo váy hai tà và áo váy quấn cùng xế. Người Hmong xưa kia cũng có trang phục với tà áo rộng hơn, tương tự như dạng áo hai tà của người Việt và các dân tộc. Dạng áo hai tà ở người Dao Tiền và người Hmong thời Pháp thuộc. Dạng áo hai tà ở các dân tộc Động, Pa Dí, Kam, La Hủ, Bố Y. d. Dạng váy xòe xếp ly cho nữ giới: Trên thạp Hợp Minh có hoa văn thể hiện một dạng váy xòe xếp ly, dạng váy xòe xếp ly xuất hiện rất phổ biến trong các dân tộc ở Việt Nam và Hoa Nam như Hmong, Choang, Động, Paiwan… [Nguồn: Nguyễn Du Chi, Hoa Văn Việt Nam] Dạng váy xòe xếp ly được thể hiện trên thạp Hợp Minh là liền với thân áo, độ dài có thể tới gần cổ chân. Dạng áo này có thể có thêm chiếc xế hoặc hai tà ở lớp ngoài cùng tương tự như các dân tộc được chúng tôi dẫn ở các hình phía dưới. Dạng váy xòe xếp ly ở các dân tộc Choang, Hmong, Động, Paiwan. 2.2. Dạng áo hai tà sử dụng cho lễ tế: Chúng tôi nhận thấy dạng áo hai tà được sử dụng trong hầu như trên tất cả hình họa trên các trống đồng thời Đông Sơn của người Lạc Việt và cộng đồng tộc Việt, với đa số hình họa được thể hiện cho hoạt động tế lễ. Dạng áo hai tà này cũng xuất hiện trong hình họa của hầu hết các trống đồng ở các vùng tộc Việt khác, cũng dành cho nhiều mục đích và đối tượng như trên trống đồng Đông Sơn. Dạng áo hai tà được thể hiện trên trống đồng Điền Việt và trống đồng Dư Hàng, Chiết Giang. [Nguồn: 1, 2] Kiểu dáng cơ bản của áo hai tà: Dạng áo hai tà theo các hình vẽ trên trống đồng cho thấy thân áo nối liền với áo hai tà, phần chân có thể mặc quần dài, do tính chất trang trọng của các dịp lễ tế. Theo khảo cứu văn hóa, thì tộc Việt có thể đã có trang phục dạng quần. Dạng áo hai tà này còn có thể thấy trong điệu Hoàng Vũ của người Miêu trên đảo Hải Nam. Tà áo của người Việt có thể rộng hơn so với tà của người Miêu trên đảo Hải Nam. Điệu Hoàng Vũ của người Miêu trên đảo Hải Nam [nguồn] Dạng áo hai tà đính lông chim sử dụng cho lễ tế: Dạng áo hai tà với kiểu dáng tương tự như trên được đính thêm lông chim để sử dụng trong lễ tễ, cùng với đó là đội mũ lông chim, như một hình thức hóa trang thành chim, để thể hiện nền văn hóa lưỡng hợp Tiên (Chim) – Rồng của dân tộc Việt (cùng với hình thức xăm mình hình rồng). Trên trống đồng Điền Việt có thể hiện khá rõ ràng hai hình ảnh tương phản: trang phục thường ngày và trang phục lễ tế, trang phục thường ngày là dạng áo váy xuông và váy quấn sử dụng cho đa số cư dân, còn phía dưới là dạng áo hai tà đi cùng lông chim được sử dụng trong các dịp lễ tế. Trong ngày lễ, người Việt cũng có sử dụng cùng với những chiếc mũ lông chim, thường ngày có thể không sử dụng. Dạng mũ lông chim có thể tương tự như của người Paiwan và người Động, với chiếc khăn đội đầu đính lông chim lên phía trên. Mũ lông chim của người Động. [Nguồn: dẫn] Dạng mũ lông chim của người Paiwan. Điệu vũ thờ cúng Tổ Tiên, tế lễ núi sông được thể hiện khá rõ ràng trên trống đồng, với hình ảnh người hóa trang thành chim với áo hai tà đính lông chim và đội mũ lông chim. Điệu vũ thờ cúng Tổ Tiên, tế lễ sông núi, còn giữ được ở người Hmong, được gọi là Hoàng Vũ. Thời nhà Chu cũng sử dụng áo lông chim phục vụ cho mục đích tế lễ tương tự như người Việt. Đây là ảnh hưởng có tính lan tỏa của văn hóa gốc Cao Miếu tại Hồ Nam của người Việt. Điệu Hoàng Vũ của người Hmong trên đảo Hải Nam [nguồn], và áo lông sử dụng trong cúng tế của nhà Chu. 2.3. Dạng áo trùm cho quý tộc và thường dân: Trên trống đồng Điền Việt cũng như tài liệu lịch sử, cũng đã ghi lại và thể hiện những dạng áo trùm khổ rộng, được sử dụng cho các quý tộc, và có thể cả thường dân, có thể có cả chức năng giữ ấm vào mùa đông. a. Dạng áo trùm khổ rộng dành cho quý tộc: Bên cạnh dạng áo trùm dành cho thường dân, bó sát thân hơn, thì còn một dạng áo trùm khổ rộng, có thể được sử dụng cho bậc quý tộc, tương tự như những hình ảnh trên trống đồng văn hóa Điền Việt ở dưới đây. Dạng áo này trông rất giống áo của dân tộc Mapuche, người bản địa Nam Mỹ (Chile). Dạng áo trùm trên trống đồng Điền Việt và dạng áo của người bản địa Nam Mỹ (Chile) [Nguồn]. Dạng áo này và dạng áo trùm trên trống đồng Động Xá và trống đồng Điền Việt là tương đồng về ý tưởng thiết kế (chui đầu), với dạng áo của thường dân được sử dụng cùng dây lưng hoặc cạp váy. Dạng áo trùm này cũng được ghi lại trong thư tịch lịch sử: “Người Việt vùng Lĩnh Nam, đặc biệt là Tây Lạc Việt, thường ngày vẫn mặc áo và váy (theo Hậu Hán Thư, Đông Di Truyện) (áo váy quấn và váy chui đầu), cũng giống như câu ca dao Việt Nam: “Cái thúng mà thủng hai đầu, bên ta thì có bên Tàu thì không”.” [66] b. Dạng áo trùm Poncho: Dạng áo chui đầu kiểu Poncho được cổ sử Trung Hoa như Bác Vật Chí, Dị Vật Chí và Tam Tài Đồ Hội (三才图会, đời Minh), từng nhắc đến khái niệm “dân khoan ngực (穿胸民)”, theo khảo cứu của Eberhard W. [1968: 360-361], đó chính là hình ảnh chiếc áo choàng đầu kiểu poncho đặc trưng của người Việt cổ vùng Dương Tử. Theo tác giả, cư dân Bắc Bộ Việt Nam thời Đường cũng rất chuộng loại áo này. [6] Chúng tôi có tìm được một tư liệu trang phục của dân tộc Mapuche, người bản địa châu Mỹ, họ cũng có liên hệ với văn hóa của tộc Việt, cổ vật của họ có điểm tương đồng với văn hóa Lương Chử và Thạch Gia Hà của tộc Việt, nên chúng ta có thể dựa vào những ghi chép trong cổ sử và tham khảo dạng áo của họ để phục dựng lại dạng áo Poncho thời kỳ Hùng Vương, chúng ta cần sử dụng những hoa văn, màu sắc của người Việt để phác họa lại một trang phục có tính Việt nhất. Dạng áo trùm Poncho này có thể được may bằng vải gai, và có thể được sử dụng như một dạng áo ấm trong mùa đông. Hình vẽ dạng áo choàng Poncho của người bản địa Nam Mỹ (Chile). [Nguồn] Dạng áo Poncho trong thực tế của người bản địa Nam Mỹ (Chile). [Nguồn] 2.4. Dạng áo – quần dành cho cả nam và nữ: Về trang phục dạng quần, chúng tôi chưa tìm được bằng chứng trực tiếp chứng minh trang phục thời Hùng Vương đã có dạng quần, tuy nhiên quần đã xuất hiện từ sớm tại văn hóa Hoa Hạ, sự giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại giữa người Việt và người Hoa Hạ là rõ ràng trong các giai đoạn. Văn hóa Điền Việt cũng đã có quần. Các dân tộc có cùng nguồn gốc với người Việt cũng đã có rất phổ biến trang phục dạng quần. Yu Tianjin và các nhà nghiên cứu Trung Quốc cũng xác định “Tục mặc quần ngắn hay váy ngắn, đội khăn”, là một phong tục của tộc Việt. Do đó có cơ sở để nói rằng thời kỳ Hùng Vương đã có trang phục dạng quần. [Xem thêm mục Θ Khảo về trang phục quần ở cuối bài khảo cứu] Trang phục dạng quần dài và áo khá đơn giản, đa phần các dân tộc đều có cùng một kiểu dáng. Áo và quần riêng biệt, áo có thể là ngắn tay hoặc dài tay. Bên cạnh quần dài, thì còn tồn tại cả dạng quần ngắn, đi cùng với áo dài, đầu đội khăn, đây là một phong tục được Yu Tianjin và các nhà nghiên cứu Trung Quốc kể tới như đặc trưng của văn hoá tộc Việt: “Tục mặc quần ngắn hay váy ngắn, đội khăn”. Các dạng áo – quần của người Paiwan, Dao Đỏ, Hmong, Tày, Nùng. 2.5. Trang phục lao động: a. Khố: Tượng trên cán dao găm Đông Sơn rất phổ biến hình ảnh nam giới cởi trần, đóng khố, đó là hình ảnh có tính nghệ thuật, thể hiện sự mạnh mẽ của giới nam, tương tự như những bức tượng Hy Lạp cổ đại. Thường ngày, người Việt mặc xiêm áo như chúng tôi đã tìm lại ở trên, họ chỉ đóng khố, cởi trần lúc lao động cho thoải mái và tiện lợi. Khố của người Việt thời Hùng Vương có thể còn cầu kỳ hơn, với cả những hoa văn tương tự như trên cán dao găm. Dạng khố cùng hai tà khố trên cán dao găm Đông Sơn và của người Việt thời Pháp thuộc sử dụng trong lao động. Dạng khố của người Việt thời Hùng Vương cũng kín đáo và dày dặn hơn so với khố của người Việt cận đại, có cả hai tà trước và sau, tương tự như khố của người Dayak. Tà sau của khố thể hiện trên cán dao găm [Martin Doustar] và khố của người Dayak. b. Áo tơi: Bên cạnh chiếc khố, thì chiếc áo tơi với chất liệu tự nhiên, dễ tìm kiếm, dễ may mặc như thế này cũng có thể được sử dụng trong đời sống lao động của người Việt xưa. Loại áo này có thể sử dụng khi làm ruộng, khi lao động để tránh nắng mưa. Hình ảnh chiếc áo tơi của người Việt. 2.6. Trang phục của chiến binh: Trong hình ảnh minh họa lại “trang phục” của các chiến binh Đông Sơn, thì họ chỉ cởi trần, đóng khố, đeo hộ tâm phiến và đánh giặc, hình ảnh đó hoàn toàn không chính xác với thực tế khảo cổ học. Khảo cổ học phát hiện rất nhiều mảnh áo giáp bằng đồng, bên cạnh những chiếc hộ tâm phiến, nên trang phục của người lính Việt thời Đông Sơn có thể đã phức tạp và cầu kỳ, chứ không đơn giản là cởi trần, đóng khố, đeo hộ tâm phiến. Mảnh áo giáp bằng đồng thời Đông Sơn. Bên cạnh đó, thì bức tượng của văn hóa Điền Việt cũng đã thể hiện trang phục và áo giáp rất rõ ràng: Chiến binh Điền Việt với bộ áo giáp cùng mũ. [Nguồn] Bản mô phỏng lại bộ giáp trên tượng của văn hóa Điền Việt: Các nhà khảo cổ Trung Quốc đã phục dựng lại trang phục của vua Điền, với áo giáp đi cùng với áo choàng vải hoặc lông vũ như chúng tôi đã tìm lại ở trên. Ngoài dạng áo giáp mảnh như trên, thì chiến binh Việt còn có thể sử dụng áo giáp da và áo giáp vải, cũng có tác dụng rất hiệu quả trong chiến tranh. Các dạng áo giáp có thể được sử dụng cùng với những miếng hộ tâm phiến được phát hiện rất phổ biến trong thời Đông Sơn, được sử dụng để che chắn điểm hiểm yếu trước ngực. Chiến binh cũng có thể có những chiếc khiên phòng thủ bằng gỗ, với hình dáng tương tự như trên tượng đồng Điền Việt: Bản phục dựng chiến binh Đông Sơn từ bạn Phan Thanh Nam (Ấm Chè), đây là bản phục dựng dựa trên sự khảo sát trang phục và cổ vật Đông Sơn và tộc Việt còn sót lại, rất đáng để chúng ta tham khảo: 2.7. Trang phục cho trẻ em: Trang phục của trẻ em là những bản thu nhỏ của trang phục người lớn, từ những trang phục mà chúng tôi đã tìm kiếm lại ở phía trên, chúng ta có thể giản lược họa tiết, thu nhỏ, đưa những hoa văn phù hợp hơn với trẻ em vào trang phục. Chúng ta có thể tham khảo những dạng trang phục cho trẻ em ở các dân tộc ở dưới đây. – Với những bé gái, thì trang phục có thể là những chiếc váy hai tà hoặc váy xoè xếp ly, cài khuy bên trái, hoa văn có thể sặc sỡ một chút. Ảnh 1: trang phục trẻ em Hmong, ảnh 2, 3: Trang phục trẻ em Paiwan [1,2] Trang phục bé gái Paiwan được thu nhỏ từ trang phục người lớn. [Nguồn] – Đối với bé trai, thì chúng ta cũng có thể sử dụng cả hai loại: áo váy quấn tả nhậm, áo váy xuông. Hoa văn trên trang phục của bé trai có thể đơn giản hơn một chút so với của bé gái. Trang phục bé trai Paiwan. [1, 2] 3. Các bộ phận phụ của trang phục: 3.1. Mảnh áo trùm ngực: Các dạng trang phục của nữ giới mà chúng tôi đã tìm lại ở trên có thể được sử dụng cùng với áo trùm ngực với những tua rua trang trí. Loại áo này thường được sử dụng trong những dịp quan trọng như lễ hội, lễ cưới, được sử dụng dành riêng cho các thiếu nữ. Người Kalavan (Đài Loan), người Paiwan (Đài Loan), người Dayak (Indonesia), người Miao (Hồ Nam, TQ). 3.2. Băng đeo chéo: Dạng băng đeo chéo người chúng tôi nhận thấy được các dân tộc sử dụng khá phổ biến, và nó cũng xuất hiện trên các bức tượng của văn hóa Điền Việt. Nó có thể được sử dụng để thể hiện tính quyền lực, hoặc sử dụng trong những dịp quan trọng như lễ hội, lễ cưới… Những bức tượng Điền Việt có thể hiện “băng” đeo chéo người. Băng có thể là băng đơn, hoặc băng đôi đeo chéo thân người, tương tự như các dân tộc ở các ảnh dưới đây. Băng đeo chéo trong trang phục người Kalavan, Tây Nguyên, Dayak, Paiwan, Hmong. 3.3. Khăn: – Có thể đã có những chiếc khăn tương tự như khăn của các dân tộc anh em của người Việt đang sử dụng vào thời văn hoá Đông Sơn, được sử dụng với chức năng giữ ấm, và có thể cả trong những dịp tế lễ. Khăn Piêu của người Thái. [Nguồn] Khăn thổ cẩm của người Mạ (Tây Nguyên). [Nguồn] 3.4. Dép: Người Việt rất ưa thích đi chân đất, do đời sống gắn bó chặt chẽ với đồng ruộng, với nông nghiệp, đây cũng là đặc điểm gắn bó chặt chẽ với người Việt trong thời kỳ trung đại, xuất hiện ở cả tầng lớp bình dân và quý tộc. Tuy nhiên, ngay từ thời văn hóa Hà Mẫu Độ cách ngày nay khoảng 7000 năm, thì người tiền Việt cũng đã sáng tạo ra một dép bằng gỗ, với di vật khảo cổ tìm được tại di tích khảo cổ Cihu, tỉnh Chiết Giang, là chiếc dép bằng gỗ cổ nhất thế giới tìm thấy được. Có thể thấy từ các lỗ xỏ dây, thì đây là một dạng xép xỏ ngón như dép lào chúng ta đi ngày nay. Dép gỗ tìm thấy lại di chỉ Cihu, quận Giang Bắc, thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. [Nguồn] Tới thời văn hóa Lương Chử, thì người Việt cũng đã kế thừa loại dép này, cũng tìm thấy được di vật khảo cổ để lại. Đây là một loại dép có hình dáng hơi khác so với dép thời văn hoá Hà Mẫu Độ, với 6 lỗ thay vì 5 lỗ, hình dáng có thể gần tương tự như hình phục dựng phía dưới. Tới thời văn hóa Lương Chử, thì người Việt cũng đã kế thừa loại dép này, cũng tìm thấy được di vật khảo cổ để lại. Đây là một loại dép có hình dáng hơi khác so với dép thời văn hoá Hà Mẫu Độ, với 6 lỗ thay vì 5 lỗ, hình dáng có thể gần tương tự như hình phục dựng phía dưới. Dép thời văn hóa Lương Chử cùng tranh phục dựng lại. [Nguồn] Tới các thời văn hóa từ Phùng Nguyên cho tới Đông Sơn, người Việt có thể kế thừa những loại hình dép này, tuy nhiên thời tiết của miền Bắc Việt Nam rất khó lưu giữ được những đồ vật bằng gỗ như thế này, hoặc có thể có nhưng chúng tôi chưa tìm thấy được tư liệu, nên chúng ta có thể sử dụng dạng dép của văn hóa Hà Mẫu Độ và Lương Chử. Loại dép này có thể được sử dụng riêng cho bậc quý tộc và các vị vua Hùng, do dân thường thường chỉ đi chân đất như lý do chúng tôi đã đề cập. Những kiểu dáng cũng đã khá cơ bản, nên khả năng chúng sẽ không thay đổi quá nhiều theo thời gian. Theo nghiên cứu khảo cổ của người Trung Quốc, thì người Lương Chử có thể còn sử dụng guốc da thú để giữ ấm trong mùa đông, đây cũng là gợi ý quan trọng để chúng ta thử tìm lại các loại giày dép trong thời kỳ này. 4. Tìm lại các dạng mũ và khăn: 4.1. Vương miện của các vua Hùng: Đối với các vị vua, thì họ có riêng cho mình những chiếc vương miện, do quyền lực của các vị vua Hùng thời kỳ đó là rất lớn, cả về chính trị và tôn giáo, nên họ phải có vật để thể hiện sự khác biệt. Loại vương miện thời kỳ đó chúng ta có thể tham khảo chiếc mũ miện mào chim trên tượng ngọc thời văn hoá Thạch Gia Hà. Mũ miện mào chim thể hiện trên tượng ngọc Thạch Gia Hà. 4.2. Dạng khuôn búi tóc của thủ lĩnh nữ: Dạng khuôn búi tóc của thủ lĩnh nữ được thể hiện trên cán kiếm ngắn có thể hiện hình tượng hai bà Trưng. Chiếc khuôn búi tóc trên chiếc cán kiếm ngắn có thể tương tự như hình ảnh được phục dựng của blog Daiyevon ở phía dưới. Kiểu búi tóc cao, buộc ở giữa này cũng có thể hiện rõ ràng trên tượng cán dao găm Đông Sơn khác, và cũng được thể hiện trên tượng gỗ Điền Việt. 4.3. Khăn đội đầu: Những chiếc khăn tròn đội đầu được các dân tộc sử dụng rất phổ biến, đa phần được sử dụng cho những người trẻ, dành cho cả nam và nữ giới. Mỗi dân tộc sẽ có sự khác biệt trong thiết kế về kích cỡ, hoa văn, cũng như có thể có sự khác biệt trong từng dịp. Chúng ta có thể sử dụng những hoa văn truyền thống của người Việt như chúng tôi đã liệt kê ở phía dưới để thiết kế một dạng khăn riêng biệt của người Việt. Người Dayak, người Yao, người Bana, người Paiwan, người Thuỷ, người Mường, người Bana (nam). Chiếc khăn tương đồng của người Điền. [Nguồn] – Trên khăn vải có thể được thiết kế thêm biểu tượng chữ V, được thể hiện trên bức tượng người quỳ Đông Sơn, có thể có tính tượng trưng cho quyền lực của người quý tộc. So sánh hình ảnh khăn đội chữ V của tượng Lạc Việt Đông Sơn với của tộc Paiwan, Đài Loan. Chiếc khăn tròn đội đầu này có thể đi cùng với mảnh khăn trùm phía sau đầu, tương tự như trên cán dao găm Đông Sơn, có chức năng giữ ấm trong mùa đông. Dạng khăn này khá tương đồng với dạng khăn của người Lô Lô. Cán dao găm Đông Sơn và dạng khăn của người Lô Lô. Dạng khăn tròn đội đầu này có thể sử dụng những hoa văn tứ giác cũng như hoa văn chữ S, đây là hai dạng hoa văn được sử dụng rất phổ biến trong thiết kế trang phục cũng như mũ miện, ngoài ra các họa sĩ cũng có thể sáng tạo các loại hoa văn được chúng tôi liệt kê ở phía dưới. Dạng hoa văn tứ giác trên khăn đội đầu Điền Việt; hoa văn tứ giác và chữ S Đông Sơn và Phùng Nguyên. Những chiếc băng đô được may bằng vải gai, với một kỹ thuật riêng biệt còn được giữ gìn ở các dân tộc Đông Nam Á, được gọi là “supplementary weaving”. Các hoa văn được tạo hình đơn giản tương tự như thế này Dạng hoa văn tứ giác trên khăn đội đầu Điền Việt; hoa văn tứ giác và chữ S Đông Sơn và Phùng Nguyên. Những chiếc băng đô được may bằng vải gai, với một kỹ thuật riêng biệt còn được giữ gìn ở các dân tộc Đông Nam Á, được gọi là “supplementary weaving”. Các hoa văn được tạo hình đơn giản tương tự như thế này: Minh họa chất liệu, hoa văn, cùng cách thêu và dệt băng đô của người châu Mỹ. [Nguồn] 4.4. Khăn vấn: Chiếc khăn vấn, vật dụng rất quen thuộc và phổ biến trong đời sống người Việt cho tới ngày nay, cũng có thể được sử dụng trong đời sống người Việt thời Đông Sơn. Các dân tộc cũng có sử dụng và thể hiện loại khăn vấn này khá phổ biến. Chúng tôi nhận thấy nó có thể có cùng ý nghĩa với loại khăn tròn đội đầu như phía trên. Loại khăn vấn này có thể được sử dụng cho người trung niên và cao tuổi, cho cả nam và nữ giới. Khăn vấn của người Việt, người Paiwan, người Dayak, người Lự, người Lê, người Miao. Chiếc khăn vấn được thể hiện trên cán dao găm Đông Sơn và tượng Điền Việt. Chiếc khăn vấn có thể được chít thêm khăn mỏ quạ, dạng khăn được người Việt ở miền Bắc sử dụng từ rất lâu đời. Chiếc khăn mỏ quạ của người Việt đi cùng với khăn vấn, tương tự như dạng khăn vấn chúng tôi đã tìm lại ở trên. Dạng khăn này giống như một sự “hóa trang” thành chim, trong văn hóa lưỡng hợp Chim-Rồng (Tiên-Rồng) của người Việt, đồng thời cũng có tác dụng giữ ấm cho đầu. Dạng khăn đội đầu của người Thủy, Thái, Dao Đỏ, Cống, Dao Tiền. 4.5. Mũ hình nón: Loại mũ tương tự chiếc nón này rất thường thấy trên các cán dao găm Đông Sơn, chúng tôi thử tìm kiếm, thì thấy chiếc mũ của người Dayak rất giống với chiếc mũ này, và cũng gần tương tự như chiếc nón lá của người Việt ngày nay. Dạng mũ này có thể được sử dụng khi lao động. Mũ của người Dayak; bức tượng trên cán dao găm Đông Sơn có chiếc mũ tương đồng với người Dayak. Dạng mũ này rất tương đồng với nón chóp của lính khố đỏ, có thể đây là một dạng mũ được người Việt lưu giữ trong dòng văn hóa dân gian, sau đó biến thể thành nhiều dạng như loại nón chóp và nón lá: 4.6. Nón dẹt: Trên tượng cán dao găm Đông Sơn cũng có thể hiện một dạng nón dẹt rất đặc biệt. Dạng nón này còn tồn tại ở người Việt, được những người lính khố đỏ thời Pháp thuộc đội. Dạng mũ này có thể dành riêng cho chiến binh. Nón dẹt trên cán dao găm Đông Sơn, và của lính khố đỏ. 4.7. Dạng khăn xếp lớp: Dạng khăn xếp lớp cũng có thể từng tồn tại trong trang phục của người Việt, với hình ảnh được thể hiện khá rõ ràng trên cán dao găm, với các đường lớp được thể hiện khá rõ ràng. Dạng khăn này cũng tồn tại phổ biến trong các dân tộc, được sử dụng cho cả nam và nữ giới. Chiếc dao găm Đông Sơn bên phải có thể hiện một dạng khăn xếp lớp (với các đường nét thể hiện các lớp khăn). Dạng khăn xếp lớp này rất phổ biến trong các dân tộc Việt Nam và Hoa Nam. Người Lê, người Bố Y, người Lự, người Dao Đỏ, người Lê, người Choang, người Miao (3 ảnh cuối). Dạng khăn xếp lớp đã được phục hồi, đưa trở lại cuộc sống của người Việt bởi chúa Nguyễn, được gọi là mũ mấn. Mũ mấn của người Việt trung đại. 4.8. Mũ hình tam giác: Dạng mũ này cũng có thể đã từng được người Việt sử dụng trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn. Nó rất giống với chiếc mũ của người Pa Dí ở miền Bắc Việt Nam. Chiếc mũ trên cán dao găm Đông Sơn và chiếc mũ của người Pa Dí. Dạng mũ này có thể đi cùng với dạng tóc búi thấp phía sau đầu. 4.9. Dạng mũ hình chữ nhật: Dạng mũ hình chữ nhật được thể hiện trên tượng cán dao găm thời Đông Sơn khá tương đồng với mũ của người Choang. Tượng thể hiện mũ chữ nhật trên cán dao găm Đông Sơn tại bảo tàng Barbier-Mueller và dạng mũ trong trang phục của người Choang. 4.10. Mũ dạng khăn đội đầu: Trên cán dao găm Đông Sơn được chúng tôi sử dụng tham khảo trang phục quý tộc nữ có thể hiện khá rõ ràng một dạng mũ trùm đầu (nhìn từ phía trước và phía sau, thì hình vẽ trên cán dao găm giống chiếc mũ hơn là vấn tóc). Chúng tôi nhận thấy dạng mũ này khá tương đồng với dạng mũ của người Lê trên đảo Hải Nam. Dạng mũ này có thể được sử dụng cùng với mái tóc thả xuôi. Mũ trên cán dao găm Đông Sơn và mũ đội đầu của người Lê đảo Hải Nam [Nguồn]. 5. Tìm lại các dạng tóc của người Việt xưa: Các loại mũ có thể có sự đa dạng, nhưng kiểu tóc là đặc trưng của một dân tộc, được sử dụng để nhận diện dân tộc trong thời xưa, về cơ bản, kiểu tóc sẽ không khác biệt quá nhiều giữa các vùng, kiểu tóc có thể được thay đổi vào các dịp ví dụ như phụ nữ có chồng sẽ thay đổi kiểu tóc. Trong sử sách, thì hai kiểu cắt tóc ngắn và búi tóc được ghi lại đặc trưng chung của tộc Việt, cổ vật và kiểu tóc của người Việt cũng thể hiện cơ bản hai dạng tóc đó. 5.1. Các kiểu tóc dành cho nam giới: ◊ Cắt tóc ngắn và búi tó: Cắt tóc ngắn được ghi lại trong sử sách như một đặc trưng của người Việt. Các sách Thuyết Uyển (thiên Phụng Sứ), Hoài Nam Tử (thiên Nguyên Đạo Huấn), Sơn Hải Kinh (thiên Hải Nội Kinh) đều có ghi “người Việt cắt tóc xăm mình cho giống loài giao long để tránh bị hại”. Trong sách Tam Quốc Chí, phần Ngô chí có ghi lại trong chi tiết, Thái thú Tiết Tông trong tờ sớ xin chọn Thứ sử Giao Châu vào thế kỷ III SCN đã miêu tả người Việt: “tóc búi, chân trần, áo vạt trái”.” Nhưng bên cạnh dạng cắt tóc ngắn, thì người Việt còn còn phong tục búi tóc, trong đó phổ biến nhất là kiểu búi tó, với tóc được búi lỡ sau gáy. Cả hai dạng tóc này có thể độc lập hoặc đi cùng nhau. Cả 2 dạng tóc ngắn và búi tó đều được thể hiện trên bức tượng người Việt tại vùng Chiết Giang. Dạng búi tó ở người Việt thời cận đại: Dạng búi thấp phía sau đầu: Dạng búi tóc thấp phía sau đầu được khắc họa trên trống đồng hiện trưng bày tại bảo tàng Hưng Yên. Tết tóc đuôi sam: Người Việt bên cạnh các kiểu búi tóc và cắt tóc ngắn, thì còn tồn tại cả tục tết tóc đuôi sam với hai nhánh ở phía sau đầu, được thể hiện phổ biến trên các tượng cán dao găm đồng Đông Sơn. Dạng tóc này khác biệt cơ bản với kiểu tết tóc của kẻ thù của người Điền Việt mà chúng tôi đã dẫn ở phần trên. Tết tóc đuôi sam Đông Sơn. 5.2. Các kiểu tóc dành cho nữ giới: Nữ giới thì có nhiều kiểu dáng hơn so với nam giới, do đặc điểm giới tính của mình. ◊ Dạng búi tóc lên cao, gập đôi, kẹp vòng hoặc buộc dây cố định cũng có thể là một dạng búi tóc của người Việt xưa, được thể hiện trên bức tượng cán dao găm thời văn hóa Đông Sơn. [Nguồn: Kiều Quang Chẩn] Dạng tóc này cũng được thể hiện trên các tượng đồng và gỗ Điền Việt. Kiểu tóc búi và buộc được thể hiện trên tượng đồng và gỗ Điền Việt. [Nguồn] Kiểu tóc búi cao với vải buộc ở giữa này có thể biến thể thành khuôn chụp tóc tương tự như tượng hai bà Trưng mà chúng tôi đã đề cập trong phần 3.1. ◊ Ngoài ra, thì còn có thể tồn tại cả dạng xõa tóc, tồn tại trên cả cán dao găm Đông Sơn, tượng và hoa văn Điền Việt. Trước đó, trong các thời kỳ Lý Trần, cư dân Việt cũng rất ưa chuộng dạng xõa tóc như thế này. Dạng xõa tóc được thể hiện trên cán dao găm Đông Sơn. Không chỉ cắt ngắn, xõa tóc, mà cả trên tượng Đông Sơn và hoa văn trống đồng Điền Việt, đều thể hiện một kiểu tóc uốn cụp rất hiện đại: Chi tiết hơn về kiểu thả tóc trên trống đồng Điền Việt. Để tóc dài và thả tóc cũng có thể là một kiểu tóc của phụ nữ Việt thời kỳ Hùng Vương với hình họa được khắc trên thạp đồng Hợp Minh: [Nguồn: Nguyễn Văn Huyên] Tết tóc và vấn tóc quanh đầu: Trên tượng cán dao găm Đông Sơn cũng thể hiện hình ảnh nữ giới tết tóc và vấn tóc quanh đầu, tương tự kiểu quấn tóc của người Bố Y ở hình dưới. Kiểu tết tóc trên tượng Đông Sơn và của người Bố Y. Kiểu vấn tóc này khá tương đồng với tranh phục dựng của blog Daiyevon. Dạng búi thấp phía sau đầu: Dạng búi thấp phía sau đầu trên tượng đồng Đông Sơn. Nguồn: Gary Todd. Dạng búi tóc lỡ phía sau đầu là rất phổ biến ở tượng Điền Việt. Vài nhận xét về trang phục thời kỳ Hùng Vương Qua khảo cứu chi tiết, chúng tôi có vài lời cần trình bày với bạn đọc về bối cảnh văn hóa thời kỳ Hùng Vương thông qua trang phục. Văn hóa tộc Việt là rất đa dạng, mỗi vùng lại có sự khác biệt nhất định trong phong tục, ngoài những đặc điểm chung, thì mỗi vùng lại có nét đặc trưng riêng, có thể nói đây là hiện trạng “đại đồng tiểu dị”, đa dạng trong thống nhất của văn hóa tộc Việt. Văn hóa Đông Sơn lại là nơi tập trung sự đa dạng lớn nhất của tộc Việt, khi đây là vùng đồng bằng, trung tâm và có điều kiện phát triển thuận lợi, nên cư dân tộc Việt đã tập trung di cư về Việt Nam trong giai đoạn cuối của tộc Việt, khi bị người Hoa Hạ xâm lược và chiếm đóng. Qua các nghiên cứu di truyền, khảo cổ và ngôn ngữ học, chúng ta có thể thấy được văn hóa thời kỳ Đông Sơn có văn hóa Nam Á chiếm ưu thế, nắm vai trò chính trong chính trị và tâm linh, các cư dân tộc Việt trở về đều hòa vào cốt lõi Nam Á để hình thành dần dần người Việt. Do đó qua đây chúng ta cũng xác định được cơ sở về trang phục chính trong thời kỳ Đông Sơn là của dòng Nam Á, có tính triết lý cao và thống nhất mạnh. Trong bối cảnh đó, văn hóa thời kỳ Đông Sơn đã thể hiện sự đa dạng trong thống nhất. Trang phục chung và cơ bản của tộc Việt là trang phục áo váy quấn tả nhậm, áo váy hai tà, áo choàng lông chim – lông ngỗng, áo choàng vải… Đặc trưng tóc cũng được thể hiện rõ qua phong cách búi tóc và cắt tóc ngắn. Đó là sự thống nhất, còn sự đa dạng được thể hiện rõ nhất qua những chiếc mũ mà chúng tôi đã tìm kiếm trên các cổ vật và đối chiếu với các dân tộc, mỗi vùng Việt có thể lại có một kiểu mũ đặc trưng của mình, bên cạnh các kiểu tóc và trang phục đặc trưng chung của tộc Việt. Khi phục dựng, các họa sĩ hãy tập trung vào các loại mũ từ phần 4.1 tới 4.7, đây là các dạng mũ có thể là của dòng Nam Á, chủ đạo của người Việt thời kỳ Đông Sơn. Phần trang phục cần dựa vào cổ vật và tư liệu mà chúng tôi đã tìm lại ở trên, cùng với đó là tham khảo trang phục các dân tộc để tìm ra hình dáng gần chính xác nhất của trang phục thời Hùng Vương. Lang Linh Chú thích và tài liệu tham khảo: [1] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại 2 lần tuyết rơi ở Cấm thành Thăng Long vào mùa xuân. – Nhâm Ngọ, Long Phù năm thứ 2 (1102), (Tống Sùng Ninh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Lập xuân; tuyết lành xuống. – Giáp Ngọ, Hội Tường Đại Khánh năm thứ 5 (1114), (Tống Chính Hòa năm thứ 4). Mùa xuân, tuyết điềm lành xuống. [2] Liu D, Duong NT, Ton ND, Van Phong N, Pakendorf B, Van Hai N, Stoneking M (2020). Extensive ethnolinguistic diversity in Vietnam reflects multiple sources of genetic diversity. Molecular Biology and Evolution. https://doi.org/10.1093/molbev/msaa099 [3] Earliest Evidence of Pattern Looms Discovered in China https://www.seeker.com/culture/archaeology/earliest-evidence-of-pattern-looms-discovered-in-china [4] Gerard C. C. Tsang, Textile Exhibition: Introduction http://www.asianart.com/textiles/intro.html [5] Vũ Kim Biên, Thời Vua Hùng không có “văn hóa đóng khố“ https://kienthuc.net.vn/tham-cung/thoi-vua-hung-khong-co-van-hoa-dong-kho-326883.html [5a] Trương Chính và Ðặng Ðức Siêu, Sổ tay văn hóa Việt Nam, nxb. Văn Hóa, Hà Nội, 1978, tr. 113-116. [6] Nguyễn Ngọc Thơ (2011), Văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam trong mối quan hệ với văn hóa truyền thống ở Việt Nam. [7] Lịch sử trang phục các triều đại phong kiến Việt Nam. Quang Vũ Trịnh. Nhà xuất bản Văn Hóa – Thông Tin, 2007. [8] Lịch sử vải sợi Việt Nam và vấn đề lễ phục – Nguyễn Việt http://ape.gov.vn/lich-su-vai-soi-viet-nam-va-van-de-le-phuc-ds248.th# [9] Lịch sử ra đời của các chất liệu vải thuần Việt https://www.elle.vn/the-gioi-thoi-trang/lich-su-ra-doi-cua-cac-chat-lieu-vai-thuan-viet [10] Hirofumi Matsumura, Hsiao-chun Hung, Charles Higham, et al. (2019). Craniometrics Reveal “Two Layers” of Prehistoric Human Dispersal in Eastern Eurasia. Scientific reports;9(1):1451. [11] Chuan‐Chao WANG Shi YAN Zhen‐Dong QIN Yan LU Qi‐Liang DING Lan‐Hai WEI Shi‐Lin LI Ya‐Jun YANG Li JIN Hui LI, et al. (2013). Late Neolithic expansion of ancient Chinese revealed by Y chromosome haplogroup O3a1c‐002611. https://onlinelibrary.wiley.com/doi/full/10.1111/j.1759-6831.2012.00244.x [12] Yang, M.A., X. Fan, B. Sun, C. Chen, J. Lang, Y.-C. Ko, C.-h. Tsang, H. Chiu, T. Wang, and Q. Bao, Ancient DNA indicates human population shifts and admixture in northern and southern China. Science, 2020. https://science.sciencemag.org/content/early/2020/05/14/science.aba0909 [13] McColl H, Racimo F, Vinner L, Demeter F, Gakuhari T, Moreno-Mayar JV, Van Driem G, Wilken UG, Seguin-Orlando A, De la Fuente Castro C, Wasef S (2018). The prehistoric peopling of Southeast Asia. Science. 361(6397):88-92. https://science.sciencemag.org/content/361/6397/88 [14] Matsumura H, Hung HC, Higham C, Zhang C, Yamagata M, Nguyen LC, Li Z, Fan XC, Simanjuntak T, Oktaviana AA, He JN. Craniometrics reveal “two layers” of prehistoric human dispersal in eastern Eurasia (2019). Scientific reports. 9(1):1-2. https://www.researchgate.net/publication/330875335_Craniometrics_Reveal_Two_Layers_of_Prehistoric_Human_Dispersal_in_Eastern_Eurasia [15] Zi-Yang Xia, Shi Yan, Chuan-Chao Wang, Hong-Xiang Zheng, et al. (2019) Inland-coastal bifurcation of southern East Asians revealed by Hmong-Mien genomic history [16] Tạ Đức, 2013, Nguồn gốc người Việt – người Mường. [17] Heather A. Peters, 2001, Ethnicity Along China’s Southwestern Frontier. https://www.researchgate.net/publication/233703687_Ethnicity_Along_China’s_Southwestern_Frontier [18] Bing Su và cộng sự, 2000, Polynesian origins: Insights from the Y chromosome. https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC26928/ [19] Per Hage và Jeff Marck, 2015, Matrilineality and the Melanesian Origin of Polynesian Y Chromosomes. https://www.journals.uchicago.edu/doi/10.1086/379272 [20] J. Koji Lum và cộng sự, 2006, Recent Southeast Asian domestication and Lapita dispersal of sacred male pseudohermaphroditic “tuskers” and hairless pigs of Vanuatu. https://www.researchgate.net/publication/6707820_Recent_Southeast_Asian_domestication_and_Lapita_dispersal_of_sacred_male_pseudohermaphroditic_tuskers_and_hairless_pigs_of_VanuatuNguồn: Lược sử Việt NamThs Nguyễn Thy Ngà Trở về đầu trang Trang phục thời kỳ Hùng Vương 0 Tổng số: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10