Khu lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ nằm trong cụm di tích Kinh Dương Vương thuộc thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh có tổng diện tích 36 hecta, theo quyết định của UBND tỉnh Bắc Ninh năm 2012.
Khu lăng mộ và đền thờ từ lâu đã được các triều đại Việt Nam
xếp vào hàng miếu thờ đế vương, đại đế, chốn linh thiêng bậc nhất của xứ Kinh Bắc,
hàng năm tổ chức quốc lễ, các quan khâm sai đến thực hiện nghi thức tế lễ và sắc
cho nhân dân địa phương hương khói phụng thờ quanh năm.
Truyền thuyết vua thủy tổ
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” do sử gia Lê Văn Hưu biên soạn
ngay trang đầu tiên có chép: Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục, là cháu ba đời
của Viêm Đế họ Thần Nông. Cha là Đế Minh, trước sinh ra một người con trai đặt
tên là Đế Nghi, sau Đế Minh đi tuần du phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh gặp, yêu mến
và lấy con gái bà Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục.
Lộc Tục từ khi sinh ra tư chất đã thông minh hơn người, vua
cha rất muốn nhường ngôi cho. Song Lộc Tục lại là một người con hiếu thảo nên
nhường ngôi cho anh là Đế Nghi. Thấy vậy vua cha là Đế Minh bèn chia đất nước
làm hai, lấy sông Dương Tử làm giới tuyến, giao cho Đế Nghi làm vua phương Bắc,
lại phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam
– hiệu là Kinh Dương Vương.
Sau khi lên ngôi, Kinh Dương Vương liền đặt tên nước là Xích
Quỷ - tên một ngôi sao sáng toả hào quang lớn nhất trong 28 ngôi sao trong giải
ngân hà (thời xưa gọi là Thập nhị bát tú).
Nước Xích Quỷ (khoảng năm 2879 trước Công nguyên) bấy giờ là
một vùng rộng lớn, phía Bắc giáp hồ Động Đình (cạnh sông Dương Tử), phía Nam
giáp Hồ Tôn (nước Chiêm Thành, nay là tỉnh Quảng Nam), phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh
Tứ Xuyên, Trung Quốc), phía Đông giáp biển Nam Hải (tức Biển Đông ngày nay),
đóng đô đầu tiên tại núi Ngàn Hống (nay là núi Hồng Lĩnh, huyện Can Lộc, Hà
Tĩnh).
Vua Kinh Dương Vương sau này lấy con gái Động Đình Quân (vua
hồ Động Đình – tên là Thần Long) sinh ra Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân tên huý là Sùng Lãm, lấy vợ là Âu Cơ – con gái
của Đế Lai, sinh ra được một trăm trứng nở ra trăm người con trai (sự tích Âu
Cơ sinh trăm trứng). Sau này khi vua cha Kinh Dương Vương nhường ngôi thì lên
làm vua.
Một hôm vua Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng,
nàng là giống tiên, thuỷ hoả khắc nhau, chung hợp thật khó”. Rồi hai người từ
biệt nhau, chia năm mươi con theo mẹ lên núi, năm mươi con theo cha về biển
Nam.
Lạc Long Quân phong cho con trưởng làm Hùng Vương nối ngôi
vua. Các đời Vua Hùng từ đó chia nhau nối dõi cai quản đất nước kéo dài đến 18
đời.
Kinh Dương Vương tạ thế ngày 18/1 tại trang Phúc Khang, bộ
Vũ Ninh (nay thuộc làng Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh). Sau khi vua mất đi, nhân dân nơi đây đã lập lăng mộ và đền thờ ông. Hàng
năm, cứ đến ngày 18/1 âm lịch nhân dân nơi đây và những vùng xung quanh lại tổ
chức lễ hội để tưởng nhớ vua thuỷ tổ Kinh Dương Vương.
Cụ Biện Xuân Phẩm – chủ từ đền thờ Kinh Dương Vương kể lại:
“Thấy đất đai nơi đây màu mỡ, con người, cảnh vật tươi tốt, thiên địa nhân hoà,
sau khi nhường ngôi cho con là Lạc Long Quân, vua Kinh Dương Vương đã chọn nơi
đây làm nơi an nghỉ, xây dựng lăng mộ cho mình. Hàng năm, cứ đến ngày hội 18/1
(âm lịch) là quan quân, quần thần và các vua Hùng lại về đây tế lễ, bái kiến trời
đất, tổ tông”.
Cũng theo ông Phẩm, chiếu theo nhiều sách sử và thần phả của
làng, khu lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương đã có từ rất xa xưa. Mặc dù trải
qua nhiều biến động thăng trầm của lịch sử, các cuộc chiến tranh, truất vị đổi
ngôi của các vua, những đợt lũ lụt nước tràn qua đê vào xâm phạm lăng nhưng đến
nay mộ phần vẫn còn giữ nguyên được hình dáng và vị trí.
Đền thờ và lăng Kinh Dương Vương hiện nằm trong cụm quần thể
di tích quốc gia được bảo vệ và quản lý bởi Ban quản lý di tích đền và lăng
Kinh Dương Vương xã Đại Đồng Thành.
Khu lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu
Cơ nằm trong cụm di tích Kinh Dương Vương có tổng diện tích 36 hecta, được UBND
tỉnh Bắc Ninh phê duyệt năm 2012. Trong đó, diện tích khu lăng mộ là 31.8
hecta, đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ là 4.2 hecta.
Trong suốt 4000 năm lịch sử, lăng mộ và đền thờ Kinh Dương
Vương nhiều lần được trùng tu, tôn tạo. Theo văn bia để lại, năm thứ 21 vua
Minh Mệnh (năm 1840 DL) đã cho trùng tu và đặt bia đá khắc bốn chữ: Kinh Dương
Vương Lăng để tỏ lòng tôn kính và tưởng nhớ của người đương thời.
Năm 1993, khu di tích lăng và đền thờ Kinh Dương Vương được
Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Năm
2013, UBND tỉnh Bắc Ninh phê duyệt nguồn vốn gần 500 tỷ đồng nhằm tu bổ, tôn tạo
và xây dựng nhiều hạng mục thuộc khu di tích.
Đến nay, kiến trúc khu lăng mộ Kinh Dương Vương gồm: Cổng
lăng, qua cổng lăng đi thẳng vào là phần mộ vua Kinh Dương Vương, hai bên tả hữu
là bốn nhà Văn chỉ, Võ chỉ và nhà khách. Xung quanh bốn bề cây cối xanh mát. Mặt
trước hướng ra con sông Đuống quanh năm mang phù sa màu mỡ tươi tốt về cho vùng
quê Kinh Bắc.
Độc đáo lễ rước đuốc
Đã hàng trăm năm nay, cứ đến ngày 18/1 (âm lịch) là người
dân làng Á Lữ cùng với nhân dân xung quanh lại tổ chức lễ hội Kinh Dương Vương
nhằm tưởng nhớ đến vị vua đầu tiên của nước Việt, Đại đế Lạc Long Quân và Hoàng
hậu Âu Cơ.
Lễ hội Kinh Dương Vương được chia làm hai phần, gồm phần lễ
và phần hội. Phần lễ bắt đầu từ ngày 14/1, trong ngày này, nhân dân thôn Á Lữ sẽ
tổ chức lễ rước nước từ đền thờ xuống lăng mộ, lấy nước đoạn giữa sông về dùng
trong suốt 6 ngày diễn ra lễ hội.
Tục truyền lại rằng, xưa kia Lạc Long Quân mang 50 người con
trai về biển Nam gây dựng đất nước dạy cho các con cách trồng lúa nước, đóng bè
chuối, tạo thành thuyền mà làm ăn sinh sống bằng nghề nông. Không may, sau này
một số người con trai đi biển đánh cá không trở về.
Lạc Long Quân xót lòng bèn xuống biển tìm con và dặn lại rằng:
"Nếu thấy cha đi lâu không về mà trên trần gian có điều gì khó khăn nguy
hiểm thì ra bờ sông mà đọc thần chú rằng: Ô hô! Ô hô! Ô hô” (nghĩa là cha về cứu
chúng con).
Do đó, trong ngày đầu tiên diễn ra lễ hội (ngày 14/1), các
bô lão trong làng chọn ra một người trai tráng, khoẻ mạnh đi thuyền ra giữa
dòng sông Đuống múc nước về dùng làm lễ tại đền thờ và lăng mộ Kinh Dương Vương
trong suốt những ngày diễn ra lễ hội. Hành động rước nước này có ý nghĩa như lời
mời đức Thủy tổ về chứng kiến cuộc sống của con cháu nhân dân cả nước, phù hộ
cho thiên hạ thái bình, ấm no.
Lễ hội là một chuỗi các hoạt động, trong ngày 15/1, các làng
xung quanh rước các vị thành hoàng làng về đền và lăng Kinh Dương Vương làm lễ
bái yết vua thuỷ tổ.
Ngày 16/1, dân làng tổ chức lễ rước kiệu vua thuỷ tổ Kinh
Dương Vương, đại đế Lạc Long Quân và hoàng hậu Âu Cơ xuống lăng mộ làm lễ.
Ngày 17/1, rước bài vị thành hoàng Tam công đại vương đình
làng Đồng Đoài về bái yết vua thuỷ tổ Kinh Dương Vương.
Ngày 18/1, tiến hành lễ rước vua thuỷ tổ Kinh Dương Vương, đại
đế Lạc Long Quân và hoàng hậu Âu Cơ từ lăng về lại đền thờ. Cũng trong ngày
này, các vị bô lão trong làng tiến hành lễ tế cầu nhân khang vật thịnh mưa thuận
gió hoà, Quốc thái dân an.
Đến tận ngày 19/1, thực hiện lễ Tống ruộc, rước trả nước về
sông và kết thúc lễ hội.
Ngày diễn ra lễ hội chính là ngày 18/1, trong ngày này vật
phẩm được dùng để dâng lên vua thuỷ tổ Kinh Dương Vương, Đại đế Lạc Long Quân
và Hoàng hậu Âu Cơ là một con lợn đực và một con gà trống (được gọi là khiết
sinh). Ngoài ra, còn phải hội tụ đủ ngũ phẩm bao gồm: gạo, nước, lửa, hương và
hoa.
Điều đặc biệt nữa là sự xuất hiện của ba mâm cá gỏi. Cá làm
gỏi phải sạch sẽ, rửa bằng rượu và trộn nước lá thơm. Ba mâm cá mang ý nghĩa là
vật phẩm của người con trai xuống biển đánh cá mang về dâng lên cha mẹ.
Hàng năm có hàng ngàn du khách về đây dâng hương tưởng niệm
cũng như tham quan khu di tích đền thờ và lăng mộ vua Kinh Dương Vương, đông nhất
là trong 3 tháng xuân đầu năm.
Cụm di tích đền thờ và lăng mộ Kinh Dương Vương từ lâu đã được
các vua chúa triều đại Phong kiến Việt Nam xếp vào hàng miếu thờ các bậc đế
vương, đại đế, là chốn linh thiêng bậc nhất của xứ Kinh Bắc. Cứ mỗi lần có quốc
lễ, triều đình đều sai quan đến tế, nhân dân quanh năm hương khói phụng thờ.
Nghi môn lăng Kình Dương Vương
Lăng Kinh Dương vương có lịch sử lâu đời qua nhiều lần trùng tu lớn. Phía trước cổng ra vào chia làm 3 lối, phân cách bằng các cột trụ lồng đèn. Hai bên cánh phong xây đắp hình võ sĩ đứng canh, xung quanh nhiều cây cổ thụ. Năm 1949, lăng mộ bị thực dân Pháp tàn phá. Năm 1971, Lăng được nhân dân địa phương xây dựng lại. Đến năm 2001, tỉnh Bắc Ninh tiếp tục đầu tư đại trùng tu trên đất cũ nền xưa, tôn cao 1m với diện tích 4.200m2.
Lăng được xây dựng trên một dải đất cao, bên hữu ngạn sông Đuống, phía sau là đê Đuống, mặt quay hướng Bắc, xung quanh là bãi bồi trải rộng.
Đài lăng được xây theo kiểu 2 tầng chồng diêm 8 mái, từ cổng đi thẳng
vào là khu trung tâm lăng mộ, dựng tấm bia “Kinh Dương Vương lăng” khắc
năm 1840.
Năm 2013, di tích này được Nhà nước đầu tư kinh phí kè sông, mở rộng khuôn viên lăng và xây dựng thêm một số công trình. Ngoài khu trung tâm lăng, khu di tích được tu bổ các hạng mục: Nhà thờ Văn, nhà thờ Võ và nhà khách.
Cổng Đền thờ Kinh Dương Vương.
Đền thờ Kinh Dương Vương vốn xưa được xây dựng ở phía Tây làng Á Lữ. Đền thờ Kinh Dương Vương gọi là đền Thượng, gồm hai gian tiền tế và hậu đường. Gần đền thượng là đền Hạ nơi thờ Lạc Long Quân - Âu Cơ có quy mô nhỏ hơn. Đến năm 1949, đền và đình làng Á Lữ bị giặc Pháp phá dỡ lấy vật liệu xây bốt Á Lữ, các đồ thờ tự ở đền được đưa về khu Văn chỉ của làng.
Sau năm 1954, dân làng tôn tạo Văn chỉ thành Đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ theo sự tích là 3 vị thủy tổ Việt Nam khai sáng cơ đồ nước Việt. Năm 1999 dân làng trùng tu ngôi đền đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân địa phương.
Kiến trúc Đền thờ theo lối chữ Công gồm: Tiền tế 5 gian, khung gỗ lim, phía sau để thông với một gian Ống muống nằm dọc và nối với Hậu cung 3 gian. Đề tài trang trí của di tích chủ yếu gồm Tứ linh, Tứ quý. Các mảng chạm khắc cầu kì được thể hiện ở đầu dư, các mảng cốn của di tích.
Trong đền di vật, tài liệu khá phong phú về loại hình và giá trị nghệ
thuật gồm: 3 bộ ngai thờ đặt ở hậu cung đến ngai thờ Kinh Dương Vương
đặt ở ban giữa, ngai thờ Lạc Long Quân đặt ở gian phải và ngai thời Âu
Cơ đặt ở gian trái. Tất cả đều được chạm khắc và sơn son thếp vàng lộng
lẫy.
Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương là khu di tích lớn, có giá trị lịch sử văn hoá sâu sắc được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng năm 1993.
Nguôn: Cổng thông tin điện tử tình Bắc Ninh