Miếu Mạch Lũng thuộc thôn Mạch Lũng, xã Đại Mạch, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, thờ phụng tam vị thủy thần đã có công phò giúp vua Hùng Duệ Vương đánh giặc giữ nước.
Thôn Mạch Lũng nằm trên dải đất cổ bên triền sông Hồng có bề
dày lịch sử hàng ngàn năm. Nơi đây là địa bàn sinh sống của dân Việt cổ thời dựng
nước và giữ nước của dân tộc. Miếu Mạch Lũng thờ các vị thuỷ thần có công giữ
nước thời Hùng Vương có thần hiệu được sắc phong là Minh Mỗ Đại vương Thượng đẳng
thần.
Thần tích chép: Thời Hùng Duệ Vương có người họ Hùng tên là
Hùng Trang trưởng quan đạo Hải Dương lấy vợ là Soa Nương. Hai ông bà lấy nhau
đã 8-9 năm mà chưa có con, ngày đêm bà thắp hương cầu nguyện trời đất.
Cứ như vậy kéo dài 3-4 năm trời, một đêm bà nằm mơ thấy có 3
con rồng từ ngoài vào, hoá thành 3 người con trai tự xưng là chàng Cả, chàng
Hai và chàng Ba, tất cả 3 người ở thuỷ cung tình nguyện xin đầu thai làm con.
Thế rồi bà có mang, ngày 14 tháng tám năm Nhâm Tý sinh ra một
bọc, nở ra được 3 người con trai đều có phương tư đĩnh ngộ lạ thường, thể mạo
khôi ngô kỳ lạ. Ngày qua tháng lại, ba con rất thông minh, học vài năm mà thiên
kinh vạn quyển đều đã tinh thông, bài vở kinh chuyên đều hiểu biết.
Lúc bấy giờ mất mùa, dân đói khổ, nhà vua triệu ba anh em đi
các nơi tìm cách chống nạn cho dân... Đến đoạn đầu huyện Chu Diên, phủ Tam Đới,
ba anh em dừng thuyền đứng ở đó một đêm. Được thần báo mộng, nhân dân trang Mạch
Lũng ra bờ sông lập hương án nghênh đón, đến giờ Thìn quả nhiên thuyền của ba vị
Long hầu tới, nhân dân bái tạ và xin làm thần tử. Ba vị cho phép, rồi dừng thuyền,
vào trang Mạch Lũng lập hành cung ở trên đất trang Mạch Lũng.
Lúc bấy giờ nước lớn, dân không cày cấy được. Ba vị lập đàn
tế các tam phủ, viết long điệp bắn xuống thuỷ cung, một giờ sau thì những chỗ
ngập nước đã cạn đi, chỗ hạn thì có mưa, thóc lúa được mùa, nhân dân no ấm, bốn
bể đón cảnh thái hoà. Vương hạ chiếu triệu ba vị về phong tước vương.
Ba vị ở trang Mạch Lũng, lập lại một cung khác, đón mẹ là
Soa Nương đến ở. Ngày ngày rỗi nhàn thường khuyến khích việc học hành, trồng
dâu nuôi tằm, mở lò gốm sứ từ già đến trẻ đều rất mến yêu.
Khi đất nước có giặc, vua triệu ba anh em về giúp vua đánh
giặc. Ba vị đi thuyền rồng từ sông Nhị Hà xuống, cờ xí rợp hai bên bờ, trên
thuyền chiêng trống khua như sấm động, ngàn dặm cũng phải kinh hồn, thuỷ quân
giặc sợ khiếp vía, ba vị đánh một trận bắt sống tướng giặc chém ở mui thuyền,
thu nhiều khí giới, lương thực đưa về kinh đô báo tin thắng trận.
Nhà Vua ban chiếu triệu về cung để phong thưởng. Lúc đó, ba
vị về trước điện làm lễ bá tạ rồi ai nấy đều cỡi bỏ cân đai... hoá phép biến
thành rồng, biến mất. Hôm ấy là ngày 13 tháng 7, trời đất tối sầm, khói hương
thơm ngát.
Vua Hùng phong sắc cả ba anh em là Minh Mỗ Đại vương Thượng
đẳng thần, sai sứ thần mang biểu về trang Mạch Lũng thờ phụng. Từ đó về sau,
các vị thường hiển linh giúp nước, cứu dân, cầu mưa, cầu tạnh đều rất linh ứng,
cho nên các vua đời sau đều sắc phong mỹ tự tôn vinh công đức.
Miếu được trùng tu, mở rộng nhiều lần. Lần được biết rõ nhất
là vào thời Lê Trung Hưng, quy mô bề thế, có giá trị nghệ thuật cao. Kiến trúc
của miếu làm theo kiểu chuôi vồ, cửa mở về hướng Tây - Nam, nhìn ra sông Hồng.
Miếu Mạch Lũng toạ ngự trên gò đất cao rộng ngay sát với
sông Hồng cách xa khu dân cư. Miếu có kiến trúc vừa phải, làm theo lối chữ
“đinh”. Trải qua bao biến thiên của lịch sử, ngôi miếu vẫn giữ được nét đẹp của
di tích cổ. Trên kiến trúc còn bảo lưu được những nét hoa văn của nghệ thuật thế
kỷ XVII - XVIII.
Các di vật trong di tích còn lưu giữ được phải kể đến cuốn
thần phả chữ Hán và sắc phong thần, trong đó sắc sớm nhất có niên hiệu Tự Đức
thứ 6 (1853), sắc muộn nhất có niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924), ba bộ long
ngai bài vị thờ thần là những tác phẩm nghệ thuật có niên đại thế kỷ XIX.
Ngoài ra còn có một số đồ thờ khác là những tài liệu có giá
trị phục vụ công tác nghiên cứu sự phát triển lịch sử của dân tộc. Di tích còn
bảo lưu được những hiện vật và mảng điêu khắc cổ có giá trị của nghệ thuật điêu
khắc Việt Nam từ thế kỷ XVII không ngừng phát triển rực rỡ đến thế kỷ XIX.
Lễ hội Miếu Mạch Lũng được tổ chức trong 3 ngày từ 10 đến
12/2 âm lịch hàng năm. Trong suốt 3 ngày lễ hội, các đoàn đại diện cho các tổ đội
sản xuất, nhóm đồng niên, đông ngũ, đồng môn…và các gia đình lần lượt mang lễ
lên miếu làm lễ dâng hương. Những gia đình làm ăn khá giả có thể dâng đến 5 mâm
lớn với thủ lợn, xôi, gà, trầu cau, bánh cốm…và những gia đình nghèo nhất cũng
thể hiện lòng thành với đĩa xôi, khoanh thịt. Tất cả các việc đại sự trong các
gia đình như hiếu, hỉ, xây nhà…đều phải dừng lại để tập trung cho ngày Thánh.
Phần lễ với các nghi lễ truyền thống như tế nam, tế nữ, tế
cáo, rước kiệu. Phần hội có nhiều hoạt động văn hóa dân gian như: chọi gà, cờ
tướng, bịt mắt đập niêu, hát quan họ… thu hút đông đảo người dân và du khách
tham gia./.
Với những giá trị về lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật, miếu
Mạch Lũng được Bộ Văn hóa và Thông tin xếp hạng di tích năm 1993./.
Theo Hà Nội Danh thắng
và Di tích tập 01
Nguồn tư liệu: Người Hà Nội