Nguyễn Khoan (chữ Hán: 阮寬; 906 - 967) hay Nguyễn Thái Bình (阮太平) là một sứ quân nổi dậy trong thời loạn 12 sứ quân trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 10, cát cứ vùng Tam Đái (Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc).
Ông có công chiêu mộ và huấn luyện dân binh vùng chiếm đóng để
xây dựng lực lượng và phát triển kinh tế nên được dân bản xứ tôn xưng là Quảng
Trí Quân, nghĩa là vị vua có đức lớn tài cao, rộng hiểu biết và đầy tình bác
ái, biết canh tân mỹ tục cai trị triều đình nhỏ ở Tam Đái.
Hiện một số nơi ở Vĩnh Phúc, Phú Thọ còn đền thờ phụng ông.
Năm 967 ông bị lực lượng Hoa Lư của Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp, phát triển thêm một
bước trong quá trình thống nhất, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt trong lịch sử.
Xuất thân
Về ba anh em sứ quân họ Nguyễn: Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp,
Nguyễn Siêu, theo thần tích xã Văn Uyên và xã Đông Phù Liệt, Thanh Trì, Hà Nội
thì họ là cháu của Nguyễn Hãng – một danh tướng Bắc triều. Con của Nguyễn Hãng
là Nguyễn Nê đem quân sang nước Việt đòi họ Khúc triều cống. Nguyễn Nê dựng bản
doanh ở Thành Quả lấy vợ Việt sinh ra ba con trai.
Sau khi Nguyễn Nê chết ba anh em tranh nhau giữ binh quyền,
theo mẹ ở nước Việt gây nghiệp, người nào cũng nhiều của cải, nhiều quân quyền.
Họ cùng trở thành thủ lĩnh các sứ quân cát cứ vào khoảng năm 945. Nguyễn Khoan
là anh cả, sinh năm 906, Nguyễn Thủ Tiệp sinh năm 908 và Nguyễn Siêu sinh năm
924.
Hào trưởng Tam Đái
Thời nhà Ngô, Nguyễn Khoan là một hào trưởng ở vùng Tam Đái,
tức 3 giải đất quanh ngã ba Bạch Hạc.
Về quân sự, ông xây dựng thủ phủ trên gò Biện Sơn và đóng đồn
ở gò Đồng Đậu, chiêu mộ và huấn luyện dân binh để xây dựng lực lượng quân sự
dùng khi hữu sự. Tuy nhiên, ông cũng chú ý đến phát triển kinh tế, chủ trương
khuyến khích và chăm sóc nghề nông, canh tân tập tục nông thôn.
Với sự giúp đỡ của hai tùy tướng tài và hai người vợ tài giỏi,
ông đã xây dựng được vùng Tam Đái được thái bình thịnh trị, nhân dân ấm no vui
vẻ.Khu vực Tam Đái xưa vốn nổi tiếng trù phú với câu ca "Nhất Tam Đái, nhị
Khoái Châu".
Nay có Đồng Đậu là một di chỉ cư trú của người Việt cổ lớn
nhất ở trung tâm vùng tam giác châu thổ Bắc Bộ, phạm vi diện tích phân bố rộng
nhất, tầng văn hoá dày nhất, chứa đựng khối lượng hiện vật khảo cổ rất lớn và
phong phú.
Sơn tây tỉnh chí chép về vùng đất Tam Đái:
Một bên là núi Một tai, một bên là núi Biện, ở địa phận xã
Vĩnh Mỗ, huyện Yên Lạc giữa đất bằng nổi lên đồi đất, hình như voi quỳ. Dưới có
đầm sâu, Nguyễn Sứ quân chiếm Tam Đái, đóng đô ở đấy, vì thế có tên là Nguyễn
Gia Loan. Loan giang - cùng với Bạch Hạc giang - Phó Đáy giang tạo nên Tam Đái
- trở thành địa danh lịch sử từ thời Sứ quân, một “tiểu triều đình” tạo nên bởi
ba dải sông, nên sự trù phú: “Nhất Tam Đái, nhì Khoái Châu”.
Nguyễn sứ quân
Lực lượng thôn Đường
Lâm của Ngô Nhật Khánh và thôn Nguyễn Gia Loan của Nguyễn Khoan là những thế lực
chống đối đầu tiên bị triều đình họ Dương điều quân tiến đánh. Năm 965, Ngô
Xương Văn tiếp tục đem quân đi đánh hai thôn Đường và Nguyễn ở Thái Bình bị phục
binh bắn nỏ trúng, tử trận.
Các nhà nghiên cứu xác định thôn Đường tức Đường Lâm, thuộc
phạm vi kiểm soát của sứ quân Ngô Nhật Khánh, còn thôn Nguyễn Gia Loan thuộc phạm
vi kiểm soát của sứ quân Nguyễn Thái Bình, tức Nguyễn Khoan.
Loạn hai thôn Đường, Nguyễn ở Thái Bình là cuộc nổi dậy ở địa
phương, không chịu khuất phục chính quyền trung ương Cổ Loa khi nhà Ngô đã ở thời
kỳ khủng hoảng và suy yếu.
Trong nỗ lực cuối cùng, Ngô Xương Xí lên kế thừa ngôi vị,
nhưng bất lực trước thời cuộc nên tự lui về giữ Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh
Hóa), tự coi mình là một sứ quân. Một số tướng lĩnh, thổ hào địa phương cũng
xây dựng thế lực cát cứ, hình thành Loạn 12 sứ quân.
Vốn gắn bó với vùng Tam Đái, lại có nhiều công ơn với nhân
dân trong vùng, thời loạn lạc, Nguyễn Khoan dần xây dựng thế lực riêng, nghiễm
nhiên trở thành một sứ quân mạnh. Ông tự xưng Nguyễn Thái Bình, tước Quảng Trí
Quân.
Truyền thuyết ở xã Tứ Yên, Lập Thạch cho biết khu vực này
thường xuyên là địa bàn tranh chấp của 2 sứ quân Nguyễn Khoan và Kiều Công Hãn,
nơi đây diễn ra nhiều trận đánh bất phân thắng bại. Lịch sử hình thành làng Thổ
Tang (Vĩnh Tường) cho biết: Để củng cố và phát triển thế lực, thủ lĩnh Nguyễn
Khoan, lúc bấy giờ hùng cứ suốt một dải từ Bạch Hạc qua Thổ Tang đến huyện Yên
Lạc, đã lệnh cho một số làng thuộc khu vực mình cai quản phải di chuyển đến nơi
khác, do đó cư dân Thổ Tang lúc đó phải di chuyển ra cánh đồng Ma Trám lập
thành làng mới.
Tại đây dân làng đã dựng lên ngôi đình đầu tiên, nay nơi đó
chỉ còn lại dấu tích gọi là bãi Nền Đình. Sau khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn
cát cứ 12 sứ quân, lập nên triều đình Đinh thống nhất, các làng thiên di trước
được lệnh trở về chỗ cũ, do đó dân cư sống ở cánh đồng Ma Trám đã quay trở lại
xóm Cả. Từ xóm Cả, làng Thổ Tang tiếp tục phát triển mở rộng ra khu Đông, khu Bắc,
khu Nam và Phương Viên ngày nay.
Cuối năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẫn quân lên vùng Tam Đái, Nguyễn
Khoan chống không nổi, tử trận. Hai tướng và hai bà vợ của ông tự vẫn ở Ao Nâu,
cạnh gò Đồng Đậu. Tuy nhiên, theo thần tích làng Vĩnh Mỗ (huyện Yên Lạc, Vĩnh
Phúc) thì Nguyễn Khoan được Đinh Bộ Lĩnh không giết và ông đã xuống tóc đi tu.
Vì thế mà chùa Biện Sơn ngày nay cũng thờ đại sư Nguyễn Khoan.
Theo thần tích Đình Mai Phúc, Gia Thuỵ, Gia Lâm, Hà Nội thì
hai vị thành hoàng là 2 anh em Xuân Vinh và Luận Nương đã tập hợp trai tráng
trong làng thành đội dân binh và đã từng đánh bại quân của Nguyễn Khoan. Theo
thần tích đình Hướng Nghĩa ở Nam Định thì tướng Phạm Hạp chính là người đánh bại
và chém chết sứ quân Nguyễn Khoan ở Tam Đái.
Nhân dân thờ phụng
Trong bối cảnh đất nước rơi vào tình trạng vô chủ, sứ quân
Nguyễn Khoan xây dựng thế lực quân sự mạnh, thiết lập chính quyền và duy trì trật
tự tại Tam Đái để nhân dân có thể sống yên bình trong vùng đất kiểm soát là điều
cần thiết và thuận lòng dân, dù không có tính toàn cục và chỉ diễn ra trong một
thời đoạn ngắn, mang lại phúc đức cho dân, sứ quân Nguyễn Khoan vẫn được nhân
dân trong vùng cát cứ nhớ công ơn và lập đền thờ.
Hiện nay, ở Vĩnh Phúc có đền Gia Loan ở thị trấn Yên Lạc và
đình Lác ở làng Giã Bàng, xã Tề Lỗ (đều thuộc huyện Yên Lạc) và đình Phan Dư,
xã Cao Phong, huyện Sông Lô là nơi thờ riêng ông. Ngoài ra còn có chùa Biện
Sơn, cũng thuộc thị trấn Yên Lạc, thờ Nguyễn Khoan, được nhà nước Việt Nam công
nhận là di tích lịch sử văn hóa. Làng Vĩnh Mỗ có lệ đánh cá thờ, mở vào ngày mồng
8 tháng Giêng hàng năm. Ở Ao Náu bên xứ gò Đậu - dân làng chài con to nhất dâng
cúng sứ quân Nguyễn Khắc Khoan là Thành hoàng của làng.
Phả lục đền Nguyễn Gia Loan (đền thờ Nguyễn Sứ Quân) chép:
“Trước doanh trại của ông (nay là gò chùa Biện) có một khu đồng. ông thường
tích nước thả cá. Hàng năm cứ đến ngày mùng 8 tháng Giêng đầu xuân là ngày sinh
nhật ông. ông mời bô lão trong xóm ấp, sai quân đánh cá, thiết tiệc mừng xuân.
Đêm đến lại dâng bày hoa quả bánh trái, mừng vui tưởng niệm công đức cù lao của
cha mẹ để lại. Ngày hôm sau lại mổ bò giết trâu, mời phường múa hát, cùng với
nhân dân mở hội mừng xuân”.
Đền Gia Loan là nơi lưu giữ được nhiều yếu tố liên quan đến
Nguyễn Khoan cũng như những ghi nhận công đức của ông. Nơi đây còn lưu giữ được
cuốn ngọc phả viết năm Lê Vĩnh Hựu thứ 6 (1752). Nơi đây còn có cả bức đại tự
Vĩnh Khang Tiện Dân (mãi mãi yên lành khoẻ mạnh cho mọi người dân), được treo
trong đền Gia Loan cùng câu đối ca tụng công đức to lớn của ông đối với nhân
dân vùng Tam Đái.
Tam Đái tiểu triều
đình, cát cứ nam thiên thân vũ trụ.
Ngũ trang lưu thắng
tích, đạt bào tây địa chấn sơn hà.
Tạm dịch:
Tiểu triều đình nhỏ
ở Tam Đái, phân chia cương vực chiếm giữ trời Nam.
Năm trang còn giữ
được di tích đẹp cùng trong đất miền Tây vững bền sông núi.
Hiện nay, đền thờ Nguyễn Khắc Khoan là địa chỉ nằm trong tam
giác gắn kết với Di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu và chùa Biện Sơn thành một quần thể
di tích đặc trưng vùng sông Loan - núi Biện hấp dẫn các nhà nghiên cứu lịch sử,
văn hoá, ngôn ngữ, mỹ thuật và khách tham quan du lịch về vùng đất Yên Lạc nói
riêng và Vĩnh Phúc nói chung.
Tại vùng đất ven sông Hồng, phía Nam Phú Thọ, nơi thuộc phạm
vi kiểm soát của sứ quân Kiều Công Hãn thời 12 sứ quân có di tích đình Vĩnh Mỗ,
xã Cao Xá cũng thờ tướng quân Nguyễn Khoan trong vai trò là người sáng lập ra
các làng Tề Lễ và Vĩnh Mỗ với lễ hội diễn ra từ 7 - 11/1 âm lịch hàng năm. Tên
làng Vĩnh Mỗ xã Cao Xá, Lâm Thao, Phú Thọ cũng trùng với tên làng Vĩnh Mỗ, Thị
trấn Yên Lạc, Vĩnh Phúc là nơi đóng quân của vị sứ quân này cách đó 30 km.
Khu di tích đền Gia Loan - chùa Biện Sơn
Khu di tích đền Gia Loan - chùa Biện Sơn là quần thể di tích
lịch sử văn hóa gắn liền với lễ hội sông Loan - núi Biện được tổ chức đầu xuân
hàng năm nằm trên địa bàn thị trấn Yên Lạc, Vĩnh Phúc. Đền Gia Loan nhìn xuống
dòng sông Loan, là nơi phụng thờ sứ quân Nguyễn Khoan, vị tướng đã có công chiếm
đóng và cai quản tại địa phương thời kỳ 12 sứ quân tranh hùng. Gò Đồng Đậu là
nơi đặt tiền đồn canh gác cho thủ phủ sứ quân trên núi Biện.
Chùa Biện Sơn nằm cách Đền Gia Loan khoảng 200m về phía Bắc
do Nguyễn Khoan xây dựng tại thủ phủ. Đây là công trình kiến trúc Phật giáo đặc
sắc với nhiều pho tượng Phật cổ, có tòa bảo tháp bằng đồng nguyên chất lớn nhất
Việt Nam và lưu giữ nhiều xá lợi. Trong chùa có nhiều công trình kiến trúc có
giá trị, mang đậm nét truyền thống kết hợp với hiện đại tạo thành hệ thống
“thánh đường Phật giáo” khang trang và tôn nghiêm.
Chùa được xếp hạng di tích Quốc gia năm 1996. Khu di tích đền
Gia Loan - chùa Biện Sơn là điểm đến quan trọng bậc nhất của huyện Yên Lạc và
là một trong những điểm nhấn của du lịch Vĩnh Phúc.
Tổng quan
Khu di tích đền Gia Loan - chùa Biện Sơn nằm trung tâm huyện
lỵ Yên Lạc phía nam tỉnh Vĩnh Phúc; cách thành phố Vĩnh Yên 10 Km; cách thủ đô
Hà Nội 42 km.
Khu di tích đền Gia Loan - chùa Biện Sơn là nơi tưởng nhớ vị
tướng Nguyễn Khoan từ thời 12 sứ quân trị vì trên vị trí cát cứ của ông xưa
kia. Ông là người lập ấp và cai quản ở vùng Tam Đái từ thời Ngô Quyền. Khi
Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, các nơi không thuần phục, thổ hào địa phương nổi
dậy dẫn đến tình trạng loạn 12 sứ quân.
Trước cảnh đất nước rối ren loạn lạc, để giữ đất, giữ dân,
tướng Nguyễn (Khắc) Khoan đã chiêu mộ và huấn luyện dân binh, gây dựng lên một
sứ quân đệ nhất ở vùng Tam Đái và trở thành một trong 12 sứ quân hùng cường nhất,
tồn tại hơn 20 năm trong lịch sử Việt Nam. Các sách địa chí đời Nguyễn như Sơn
Tây tỉnh Sơn Tây chí, Đại Nam nhất thống chí - từng ghi nhận trong phần cổ
tích:
“Nguyễn Gia Loan còn
có tên nữa là núi Độc. Cũng gọi là Biện Sơn (núi Biện), ở địa phận xã Vĩnh Mỗ
huyện Yên Lạc. Chỗ ấy, nổi lên một đồi đất hình như voi quỳ. Bên dưới là đầm
sâu. Sứ quân Nguyễn Khoan chiếm chỗ ấy dựng đô, gọi là Tam Đái, vì thế nên gọi
là Nguyễn Gia Loan”.
Khu vực Tam Đái xưa, tức Yên Lạc nay vốn nổi tiếng trù phú với
câu ca "Nhất Tam Đái, nhị Khoái Châu". Nơi đây có Đồng Đậu là một di
chỉ cư trú của người Việt cổ lớn nhất ở trung tâm vùng tam giác châu thổ sông Hồng,
phạm vi diện tích phân bố rộng nhất, tầng văn hoá dày nhất, chứa đựng khối lượng
hiện vật khảo cổ rất lớn và phong phú.Vốn gắn bó với vùng Tam Đái, lại có nhiều
công ơn với nhân dân trong vùng, thời loạn lạc, Nguyễn Khoan dần xây dựng thế lực
riêng, nghiễm nhiên trở thành một sứ quân mạnh. Ông tự xưng Nguyễn Thái Bình,
tước Quảng Trí Quân tức vị Vua có tài năng đức độ, cai trị triều đình nhỏ ở Tam
Đái.
Về quân sự, sứ quân Nguyễn Thái Bình xây dựng thủ phủ trên
gò Biện Sơn và đóng đồn ở gò Đồng Đậu, chiêu mộ và huấn luyện dân binh để xây dựng
lực lượng quân sự. Tuy nhiên, ông cũng chú ý đến phát triển kinh tế, chủ trương
khuyến khích và chăm sóc nghề nông, canh tân tập tục nông thôn, xây dựng được
vùng Tam Đái được thái bình thịnh trị, nhân dân ấm no vui vẻ. Để tưởng nhớ công
ơn của ông, nhân dân thị trấn Yên Lạc lập đền thờ và tôn ông làm Thành hoàng.
Nhà sử học Phan Huy Chú khi viết về các bậc đế vương cũng đã
xếp tướng Nguyễn (Khắc) Khoan vào “dòng chính thống các bậc đế vương” như các
hàng đế vương khác trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Và với mỗi người dân Thị
trấn Yên Lạc hôm nay, Đền Gia Loan vẫn hiện hữu, gợi bao ký ức về một người anh
hùng hào kiệt, một “Thành hoàng Quảng Trí hiển ứng linh thiêng đại vương”.
Đền Gia Loan
Đền Gia Loan tương truyền được xây dựng từ thời nhà Đinh. Đền
thờ thủ lĩnh Nguyễn (Khắc) Khoan là một nhân vật lịch sử thuộc thế kỷ thứ X.
Ông còn có tên tự xưng là Quảng Trí Quân, Nguyễn Thái Bình khi nổi lên làm tướng
thời loạn 12 sứ quân.
Đền Gia Loan nằm trên một gò đất cao, nhỏ vừa khuôn viên của
đền, tách biệt hẳn với nơi cư dân đông đúc, nằm trên con đường liên xã từ thị
trấn Yên Lạc đi Nguyệt Đức, cách di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu 300m. Đền trông về
hướng Nam, phía con sông Gia Loan xưa. Vùng di tích núi Nguyễn Gia (nơi có Gia
Loan từ) là cổ tích của vùng Tam Đái.
Qua dáng dấp và kiểu cấu trúc của ngôi đền cho thấy di tích
đã được tu sửa lại nhiều lần. Hiện nay, Đền Gia Loan còn lưu giữ được nhiều di
vật đa dạng, phong phú. Đó là các bức phù điêu bằng gỗ. Phù điêu trạm nổi tượng
Nguyễn (Khắc) Khoan.
Tượng ngồi trên ngai với hình dáng sống động, cầu kỳ sơn son
thếp vàng lộng lẫy, uy nghi. Khuôn mặt phương phi, nghiêm nghị, tai to, mắt xếch
nhìn thẳng, mồm mím lại, tay phải cầm thẻ bài để ngửa trên đùi, tay trái úp lên
đùi, chân đi hài cong. Tượng mặc áo long cổn đai trễ chạm chữ thọ.
Các nghệ nhân dân gian xưa đã chạm nổi thêm một đôi rồng chầu
với các hình ảnh mây cụm 2 bên thân tượng tạo thành những ánh hào quang tỏa ra
thật rực rỡ, uy nghi. Rồng thân mảnh mai được chạm rõ từng nét vảy cuốn lượn từ
trên xuống, đầu uốn cong, ngẩng cao cùng chầu vào 2 bên phần ngực tượng, đầu rồng
hơi to, quá khổ so với thân, mũi lồi, mồm há dữ tợn, bờm tóc vuốt ngược, chân rồng
bốn móng dang rộng như đang đạp trên mây cụm.
Phù điêu chạm nổi tượng hai bộ tướng. Hai bức phù điêu này đặt
trên ban thờ ở hai bên phía ngoài cùng hậu cung, có cùng kích thước cao 0,6m,
ngang 0,3m. Đồ gỗ còn một số bàn thờ, nghi môn, đại tự và đôi câu đối treo ở hậu
cung đền, ở hai bên ban thờ:
Nguyễn Gia Loan
chi gian thập nhị xứ quân kỳ nhất
Ngô Vương kỷ nhi hậu,
thiên bách dư niên vu kim
Tạm dịch: Thời Nguyễn Gia Loan, 12 sứ quân ông giỏi nhất/Sau
kỷ Ngô vương nghìn năm lẻ đến nay
Đền Gia Loan còn lưu giữ 5 đạo sắc phong:
Cảnh Hưng tam
niên, thập nhất nguyệt, nhị thập nhị nhật (Cảnh Hưng năm thứ 3, tháng 11 ngày
22, tức ngày 22/11/1742).
Phong sắc Đương cảnh
Thành Hoàng Quảng Trí Đại Vương, Nhẹ Nhời tướng quân đại vương; Ôn Nhời tướng
quân đại vương, Ả Nữ Nương Đề Công chúa; A công Hoàng Nương công chúa”.
Lê Chiêu Thống
nguyên niên, Tam nguyệt, nhị thập nhị nhật (Lê Chiêu Thống ngày 22/3/1787).
Tự Đức tam niên,
thập nhị nguyệt, sơ lục nhật (Tự Đức năm thứ 10, ngày 6/12/1857).
Duy Tân tam niên,
bát nguyệt, thập nhất nhật (Duy Tân năm thứ 3 ngày 11/8/1909).
Chùa Biện Sơn
Chùa Biện Sơn hiện nay tọa lạc trên một gò đất cao rộng khoảng
14.939m2 xưa kia có tên là Độc Nhĩ, người dân địa phương hay gọi là Núi Biện với
dáng quy xà hợp hình rất kì lạ. Ngôi chùa đã được tu bổ, tôn tạo, xây dựng với
quy mô hoành tráng nhưng vẫn giữ được những nét cổ kính của một ngôi chùa thuần
Việt trên cơ sở nền chùa cũ theo kiến trúc kiểu chữ “Đinh” gồm tiền đường 5
gian 2 dĩ, thượng điện 3 gian, các bộ vì theo kiểu thức “chồng rường giá
chiêng”.
Đại bảo tháp chùa Biện Sơn được đúc bằng đồng nguyên chất
theo dáng tháp của Tây Tạng, bên trong có chứa nhiều viên xá lợi lớn nhất Việt
Nam đã thu hút du khách đến chiêm bái và lấy làm biểu trưng tu hành cho cuộc đời
mình.
Phả lục đền Nguyễn Gia Loan (đền thờ Nguyễn Sứ Quân) chép:
“Trước doanh trại của ông (nay là gò chùa Biện Sơn) có một khu đồng. Ông thường
tích nước thả cá. Hàng năm cứ đến ngày mùng 8 tháng Giêng đầu xuân là ngày sinh
nhật ông.
Ông mời bô lão trong xóm ấp, sai quân đánh cá, thiết tiệc mừng
xuân. Đêm đến lại dâng bày hoa quả bánh trái, mừng vui tưởng niệm công đức cù
lao của cha mẹ để lại. Ngày hôm sau lại mổ bò giết trâu, mời phường múa hát,
cùng với nhân dân mở hội mừng xuân”.
Cuối năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẫn quân lên vùng Tam Đái, Nguyễn
Khoan chống không nổi, tử trận. Hai tướng và hai bà vợ của ông tự vẫn ở Ao Nâu,
cạnh gò Đồng Đậu.
Tuy nhiên, theo thần tích làng Vĩnh Mỗ (tức thị trấn Yên Lạc
ngày nay) thì Nguyễn Khoan được Đinh Bộ Lĩnh tha không giết và ông đã xuống tóc đi tu
tại ngôi chùa Biện Sơn do ông xây dựng trước đó. Vì thế mà chùa Biện Sơn ngoài
thờ phật còn thờ đại sư Nguyễn Khoan. Chùa Biện Sơn hiện là cơ sở phật giáo lớn của tỉnh Vĩnh
Phúc.
Gò Đồng Đậu
Nếu như gò Biện Sơn là nơi Nguyễn Khoan chọn để đóng thủ phủ
thì gò Đồng Đậu là tiền đồn canh gác, của tòa thành. Gò Đồng Đậu còn là nơi 2 vị
tướng và 2 bà vợ của Nguyễn Khoan đã nhảy xuống ao Nâu tự vẫn khi lực lượng Tam
Đái thua trận.
Gò Đồng Đậu cao khoảng 15 mét, rộng khoảng 8,5 hecta. Các
nhà nghiên cứu đã tiến hành 6 đợt khai quật và phát hiện ra hàng ngàn hiện vật
của 4 tầng văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Văn hóa Gò Mun và Văn hóa Đông Sơn nằm
chồng lên nhau lần lượt.
Phát hiện này cho phép các nhà nghiên cứu khẳng định văn hóa
Đông Sơn có nguồn gốc bản địa. Đặc biệt hơn, những phát hiện đầu tiên chính tại
đây về một nền văn hóa có niên đại khoảng 1.500 năm trước công nguyên, sau văn
hóa Phùng Nguyên, đã khiến các nhà nghiên cứu lấy tên cánh đồng Đậu đặt cho nền
văn hóa này.
Những hạt lúa gạo cháy tìm thấy trong tầng văn hóa Phùng
Nguyên đã khiến các nhà nghiên cứu khẳng định người Việt biết trồng lúa từ giai
đoạn văn hóa Phùng Nguyên.
Lễ hội sông Loan núi Biện
Lễ hội Đền Gia Loan - Chùa Biện Sơn được diễn ra đầu xuân
hàng năm (từ ngày 11 đến rằm tháng giêng) với chủ đề “Về với sông Loan - núi Biện”
là lễ hội cấp huyện duy nhất trên địa bàn huyện Yên Lạc. Ngày nay đến Gia Loan
là nơi nhân dân địa phương dùng làm nơi sinh hoạt tâm linh, tế lễ vào các ngày
sinh, ngày hoá, ngày tết Trung thu để ghi nhớ công lao của vị nhân thần có công
với nhân dân trong vùng, là nơi vãn cảnh của du khách thập phương.
Ngoài ra, đền Gia Loan còn lưu giữ các phong tục lễ hội xưa
trong năm như:
Ngày 8 tháng
giêng, ngày sinh của ông, lễ dùng: ngày bắt cá sống tiến dâng (tiệc Đả Ngư).
Ngày 10/4 âm lịch,
ngày hoá của ông lễ dùng: trâu, bò.
Ngày 10/5 âm lịch
ngày hóa của 2 bà vợ lễ dùng: lợn, gà, xôi, rượu.
Ngày 22/11 âm lịch
ngày phong sắc, lễ dùng trâu, bò, ca hát 1 đêm.